Bản án về tội giết người, cướp tài sản số 20/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI, CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2024/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Luân V; Sinh ngày: 01/9/2005 tại tỉnh Đ;

Nơi cư trú: Thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông: Hoàng Văn V1, sinh năm 1972 và con bà: Đinh Thị P, sinh năm 1977; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ – Có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Toà án: Luật sư Đặng Nguyễn Duyên A, thuộc Công ty L1, Đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: Số A A, thành phố B, tỉnh Đ – Có mặt.

* Người bị hại: Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ – Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đinh Thị P, sinh năm 1977, địa chỉ: Thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ – Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 1987, địa chỉ: Thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/9/2023, bị cáo Hoàng Luân V nảy sinh ý định đột nhập vào nhà của chị Nguyễn Thị O, tại địa chỉ: Số C đường A, thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ cạnh nhà V để trộm cắp tài sản. Khi đi, V đeo khẩu trang màu xanh và cầm theo 01 cây gậy kim loại tròn, rỗng, dài 55,8cm, đường kính 2cm rồi đột nhập vào nhà chị O qua cửa sổ bị hư chốt khóa ở phía sau nhà. Khi vào trong nhà, V thấy tại phòng ngủ sát phòng khách đang bật đèn ngủ chiếu sáng nên V đi vào tìm kiếm tài sản thì nhìn thấy chị O đang ngủ trên giường, ở đầu giường có 02 cái điện thoại di động để sát đầu của chị O, V đến luồn tay qua màn lấy 02 cái điện thoại di động rồi cầm đi ra khu vực rửa chén của nhà chị O ở sát phòng tắm mở 02 điện thoại để kiểm tra. V thấy 02 điện thoại di động vừa lấy được có nhãn hiệu OPPO và Vivo, trong đó điện thoại nhãn hiệu OPPO không cài khóa màn hình điện thoại, còn điện thoại nhãn hiệu Vivo có cài khóa mở bằng vân tay nên không mở được màn hình. Lúc này, V nảy sinh ý định dùng cây gậy kim loại mang theo đánh vào vùng đầu của chị O làm cho chị O bất tỉnh để lấy dấu vân tay của chị O mở khoá điện thoại nhãn hiệu Vivo. Sau đó, V để điện thoại nhãn hiệu OPPO ở kệ rửa chén, cất điện thoại nhãn hiệu Vivo vào trong túi quần, rồi cầm cây gậy kim loại đi vào phòng ngủ của chị O, thấy chị O đang ngủ trong tư thế nằm ngửa, V vén màn và chui nửa thân người vào trong màn, cầm gậy kim loại bằng tay phải giơ lên nhắm vào đầu chị O đánh 03 phát liên tiếp. Do khi giơ gậy lên thì đầu gậy bị vướng vào phần trên của màn làm V không thể giơ gậy lên cao nên V không thể dùng hết lực khi đánh chị O. Sau khi bị đánh phát thứ 3 thì chị O tỉnh dậy đưa tay giữ lấy gậy giằng co và van xin: “Anh tha cho em đi, em còn nuôi hai con nhỏ”, rồi chị O vùng dậy khỏi giường để bỏ chạy thì bị V dùng tay kéo lại. Trong lúc giằng co, chị O bị va đầu vào cạnh tường phòng ngủ, ngã xuống nền nhà rồi tiếp tục đứng dậy bỏ chạy ra phòng khách. Lúc này, V dùng tay kéo chân chị O lại làm chị O ngã ngửa xuống nền nhà rồi V ngồi đè lên người chị O, dùng hai tay bóp vào cổ của chị O để làm chị O bị ngạt thở. Lúc đang bị V dùng tay bóp cổ, chị O nhặt được gậy kim loại của V rơi ở gần đó đánh trúng vào vùng đầu của V làm V buông tay ra khỏi cổ chị O. Sau đó, V tiếp tục dùng hai tay đấm nhiều cái vào vùng đầu, mặt của chị O thì chị O vùng dậy bỏ chạy được ra ngoài nhà kêu cứu. Do sợ bị người dân phát hiện nên V không đuổi theo chị O nữa mà lấy 02 chiếc điện thoại di động của chị O rồi trèo qua cửa sổ phía sau ra ngoài đi về nhà.

Về đến nhà, V cất giấu 02 điện thoại ở phía sau phòng bếp của nhà mình rồi đi ngủ, còn chị O sau đó đi đến Trung tâm y tế huyện K để điều trị thương tích. Đến ngày 16/9/2023, V biết được chị O bị thương tích nên đã đến Cơ quan Công an tự thú và khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên của mình.

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 502 ngày 06/10/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đ, kết luận về thương tích của chị Nguyễn Thị O: Vết thương để lại sẹo nằm chéo mi trên mắt trái, đầu trên cách bờ dưới chân mày trái 0,5cm đầu dưới cách khoé mắt trái 0,5cm, bờ gọn là do tác động trực tiếp với vật tày, cứng có cạnh hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, tỷ lệ 3%; 03 vết xước vùng cổ để lại ba sẹo vùng cổ trái thứ tự từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải là do tác động trực tiếp với vật tày, cứng có cạnh hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải, tỷ lệ 6%; Xước da khuỷu tay trái để lại hai sẹo thứ tự từ trên xuống dưới, từ trái qua phải là do tác động trực tiếp với vật tày, cứng có cạnh hướng từ sau ra trước, từ trái qua phải, tỷ lệ 2%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 11%. Vật tác động: Vật tày, cứng có cạnh.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 29 ngày 18/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K, tỉnh Đ kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, số kiểu máy: Vivo 1904, số Imei 1: 865950049165954, mặt lưng màu xanh lá, tại thời điểm ngày 11/9/2023 có giá trị 1.400.000 đồng;

01 điện thoại nhãn hiệu OPPO, số kiểu máy: CPH1803, số Imei 1 861703048749334, mặt lưng màu đen, tại thời điểm ngày 11/9/2023 có giá trị 900.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 2.300.000 đồng.

Cáo trạng số: 13/CT-VKSĐL-P2 ngày 23/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ truy tố bị cáo Hoàng Luân V về tội “Giết người” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Luân V khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo đã dùng cây gậy kim loại đánh mạnh nhiều cái vào vùng đầu của chị Nguyễn Thị O nhằm làm cho chị O bất tỉnh để lấy dấu vân tay mở khoá điện thoại lấy trộm được. Vì vướng cái màn ở phía trên nên bị cáo không thể dốc hết sức để đánh chị O khiến chị O vùng dậy và giằng co với bị cáo. Khi chị O bỏ chạy, bị cáo kéo chân chị O ngã xuống nền nhà rồi ngồi đè lên người chị O, dùng hai tay bóp cổ chị O để chị O nghẹt thở, đồng thời dùng tay đấm nhiều cái vào vùng đầu, mặt của chị O. Các hành vi trên bị cáo nhận thức được rằng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của chị O nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm cướp tài sản của chị O và ngăn cản việc chị O bỏ chạy.

Người bị hại chị Nguyễn Thị O xác nhận lời khai của bị cáo là đúng diễn biến sự việc xảy ra. Nay gia đình bị cáo đã đến xin lỗi và bồi thường cho chị số tiền 20.000.000 đồng, ngoài ra chị không yêu cầu gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bà Đinh Thị P trình bày gia đình đã thay mặt cháu V đến xin lỗi và bồi thường cho chị O. Do cháu còn nhỏ dại suy nghĩ nông cạn nên đã nhất thời phạm tội, mong Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt để cháu sớm được trở về với gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Luân V phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Luân V mức án từ 11 năm đến 12 năm tù về tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Luân V mức án từ 03 năm đến 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt cả hai tội buộc bị cáo Hoàng Luân V phải chấp hành chung từ 14 năm đến 16 năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 16/9/2023.

- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 20.000.000 đồng thiệt hại về sức khoẻ cho bị hại. Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu và cũng không cung cấp bổ sung tài liệu chứng cứ nào về phần bồi thường nên không xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo cho rằng: Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Giết người” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là chưa phù hợp. Mục đích bị cáo đột nhập vào nhà của bị hại là để lấy trộm tài sản và đánh bị hại nhằm làm cho bị hại bất tỉnh, lấy dấu vân tay mở khoá điện thoại và khi bị phát hiện, bị hại chống cự, tri hô, lo sợ bị phát hiện nên bị cáo mới có những hành động trong cơn hoảng loạn mà không nhằm tước đoạt tính mạng của bị hại. Việc bị cáo chỉ dùng cây sắt mỏng, nhỏ đánh bị hại không đủ để giết chết bị hại, hậu quả gây ra là bị hại chỉ bị thương tích 11% sức khoẻ. Hơn nữa, mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội khi vừa tròn 18 tuổi, suy nghĩ còn bồng bột, là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện, bị cáo đã đến cơ quan Công an để tự thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo đồng ý với ý kiến bào chữa của người bào chữa, không bổ sung tranh luận gì thêm.

Người bị hại và người liên quan không tranh luận gì và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Người bào chữa và Kiểm sát viên tranh luận nhưng đều giữ nguyên quan điểm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/9/2023, tại nhà của chị Nguyễn Thị O, địa chỉ số C đường A, thôn A, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đ, lợi dụng cửa sổ phía sau nhà chị O bị hư chốt khóa, bị cáo Hoàng Luân V đã đột nhập trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động của chị O. Sau đó, V đã sử dụng 01 cây gậy bằng kim loại đánh liên tiếp 03 phát vào vùng đầu của chị O với mục đích làm chị O bị bất tỉnh để lấy dấu vân tay mở khóa điện thoại. Bị đánh, chị O cầm giữ lấy cây gậy giằng co, van xin và bỏ chạy thì bị V đuổi theo dùng tay bóp cổ rồi dùng tay đánh nhiều cái vào vùng đầu, mặt của chị O. Hậu quả, chị O bị thương tích 11%; 02 chiếc điện thoại di động của chị Nguyễn Thị O có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.300.000 đồng.

Do đó, hành vi của bị cáo Hoàng Luân V đã phạm vào tội “Giết người” theo điểm e, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Điều 123. Tội giết người:

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng;

...

n) Có tính chất côn đồ.

Điều 168. Tội cướp tài sản:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng. Bởi lẽ, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi để nhận thức được tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người được pháp luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ, nhưng do ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã dùng cây gậy bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đánh liên tiếp nhiều cái vào vùng đầu của bị hại, khi bị hại van xin, bỏ chạy, bị cáo vẫn quyết liệt đuổi theo, kéo chân làm bị hại ngã xuống rồi dùng tay bóp cổ khiến bị hại nghẹt thở và dùng tay đấm vào mặt, đầu của bị hại với mục đích để lấy dấu vân tay của bị hại mở khoá điện thoại, ngăn cản việc bị hại bỏ chạy, truy hô. Tuy bị cáo không mong muốn giết chết bị hại nhưng việc bị cáo nhận thức được hành vi của mình có thể tước đoạt tính mạng của bị hại mà vẫn cố ý thực hiện một chuỗi hành vi như vậy, bị hại không chết là nằm ngoài ý chí chủ quan của bị cáo. Hành vi tấn công liên tục của bị cáo nhằm lấy bằng được 02 chiếc điện thoại, điều này thể hiện ý chí của bị cáo là nhằm thực hiện tội phạm đến cùng. Do đó, quan điểm của người bào chữa cho rằng hành vi của bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích là không có căn cứ xem xét. Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đối với từng tội danh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tinh thần cho bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Sau khi phạm tội, bị cáo đã đến cơ quan Công an tự thú về hành vi phạm tội, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy, cần áp dụng điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Riêng đối với tội “Giết người” bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt nên áp dụng thêm Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự để xem xét quyết định mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hoàng Luân V đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng. Tại phiên toà, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nên ghi nhận sự tự nguyện trên.

Bà Đinh Thị P là mẹ của bị cáo không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên nên không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả lại cho chị Nguyễn Thị O 02 chiếc điện thoại di động do bị cáo Hoàng Luân V giao nộp.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 cây gậy bằng kim loại và 01 cái khẩu trang do chị Nguyễn Thị O giao nộp, không còn giá trị sử dụng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Luân V phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

[2] Về hình phạt:

- Áp dụng điểm e, n khoản 1 Điều 123; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 1, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Luân V: 12 (Mười hai) năm tù về tội “Giết người”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Luân V: 04 (Bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt cả hai tội buộc bị cáo Hoàng Luân V phải chấp hành chung là 16 (mười sáu) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 16/9/2023.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; các điều 584, 585 và 590 Bộ luật dân sự:

Chấp nhận việc gia đình bị cáo Hoàng Luân V đã bồi thường xong cho bị hại chị Nguyễn Thị O thiệt hại về sức khoẻ, tinh thần số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46 Bộ luật hình sự:

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả lại 02 chiếc điện thoại di động cho chị Nguyễn Thị O là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 cây gậy bằng kim loại và 01 cái khẩu trang do chị Nguyễn Thị O giao nộp (có đặc điểm như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ).

[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Luân V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người, cướp tài sản số 20/2024/HS-ST

Số hiệu:20/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về