TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 87/2023/HS-ST NGÀY 01/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI (CHƯA ĐẠT)
Ngày 01 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh D, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2023/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh ngày 12/02/1997 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: ấp T, xã L, huyện G, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh D; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn G và bà Lê Thị Tám Đ; bị cáo sống như vợ chồng với Danh Thị Thu T, có 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 26/9/2022 cho đến nay, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H: Bà Huỳnh Phi Y, Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh B, có mặt.
- Bị hại: Bà Danh Thị Thu Tr, sinh năm 1994; nơi cư trú: ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; chổ ở: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh D, có mặt.
- Người làm chứng: bà Danh Thị Thu Y, sinh năm 1993; bà Trần Thị M, sinh năm 1964; bà Lê Thị Kim Ng, sinh năm 2004. Bà Y có mặt; bà M có đơn xin vắng mặt và bà Ng vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn H và Danh Thị Thu Tr sống chung với nhau như vợ chồng tại phòng trọ số 25 của bà Trần Thị M, địa chỉ: khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh D và có một con chung.
Đầu tháng 9/2022, do nghi ngờ bà Tr có quan hệ tình cảm với người khác nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. Ngày 24/9/2022, bà Tr có lời nói xúc phạm H vì cả ngày H không nói chuyện, hỏi H cũng không trả lời. Khoảng 23 giờ ngày 25/9/2022, khi H, Tr và cháu N1 đang chuẩn bị ngủ, H nói chuyện qua điện thoại với người quen, ảnh hưởng đến giấc ngủ nên bà Tr nói H tắt điện thoại đi rồi mai đi xin việc làm, H không trả lời mà tiếp tục nằm bấm điện thoại.
Khoảng 02 giờ ngày 26/9/2022, bực tức việc bà Tr có lời nói xúc phạm, thấy Tr đang nằm ngủ trên nệm, H ngồi dậy, lấy dây sạc điện thoại nhãn hiệu Samsung, màu trắng, dùng hai tay cầm hai đầu dây ghì xuống siết cổ bà Tr. Bị siết cổ bất ngờ, bà Tr vùng vẫy, dùng hai tay nắm dây sạc điện thoại đẩy ra làm cho một đầu dây sạc trên tay H tuột ra. H liền đứng dậy lấy dao Thái Lan, cán bằng gỗ dài 22,5cm để trên bếp, đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng ngực, bụng và lưng của bà Tr làm lưỡi dao bị cong, H liền bẻ gãy đôi lưỡi dao rồi dùng nửa lưỡi dao còn lại ở phần cán tiếp tục đâm bà Tr. Thấy con dao không còn đâm được nữa, H bỏ dao ra, đi vào nhà vệ sinh lấy cây kéo bằng kim loại quay ra tiếp tục đâm Tr. Lúc này, bà Tr chồm người dậy, dùng tay mở chốt phòng trọ để chạy ra ngoài. Thấy vậy, H dùng tay trái nắm tay bà Tr kéo lại, tay phải cầm kéo đâm hai nhát vào vùng ngực của bà Tr. Lúc này, bà Tr nói với H: “Đừng đâm nữa, con đang chứng kiến”, nhận thấy có một nhát đâm bằng kéo đã đâm sâu vào vùng ngực của bà Tr nên H dừng lại không đâm nữa. Cùng lúc này, bà Trần Thị M là chủ cơ sở trọ đi đến gõ cửa nên bà Tr mở cửa phòng chạy ra ngoài, kêu cứu. Bà M gọi xe đưa bà Tr đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thành phố T, rồi chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B tiếp tục điều trị. Ngày 26/9/2022, H đến Công an phường T, thành phố T, tỉnh B đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 836 ngày 08/12/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh D, kết luận thương tích của bị hại Danh Thị Thu Tr như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- 05 (năm) vết thương ngực (1x0,2)cm, (1x0,5)cm, (0,6x0,5)cm, (1x0,1)cm, (1x0,5)cm, thấu ngực phải và trái, tràn máu màng phổi phải lượng nhiều, tràn máu màng phổi trái lượng ít, đã phẫu thuật dẫn lưu màng phổi phải, vết dẫn lưu (2x0,9)cm, sẹo lành.
- 03 (ba) vết thương vùng lưng (1x0,3)cm, (1x0,1)cm, (1x0,4)cm, vết thương hông phải (1x0,4)cm, 02 (hai) vết thương hông trái (1x0,1)cm và (0,5x0,1)cm, thấu bụng rách cực dưới lách, đã phẫu thuật nội soi thám sát, vết mổ cạnh rốn (1x0,2)cm, vết mổ vùng hạ vị (1x 0,4)cm, vết dẫn lưu bụng trái (1,2x0,3)cm, sẹo lành.
- Vết thương vai trái (1x0,6)cm, vết thương mặt ngoài khuỷu tay phải (1x0,3)cm, vết thương mặt ngoài khuỷu tay trái (1,4x0,1cm), sẹo lành.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 33% (ba mươi ba phần trăm).
3. Kết luận khác:
* Cơ chế hình thành thương tích:
- 05 (năm) vết thương ngực, thấu ngực tràn máu màng phổi phải và trái:
Hướng từ trước ra sau, bờ sắc gọn.
- 03 (ba) vết thương vùng lưng, vết thương hông phải, 02 (hai) vết thương hông trái, thấu bụng rách cực dưới lách: Hướng từ sau ra trước, bờ sắc gọn.
- Vết thương vai trái, vết thương mặt ngoài khuỷu tay phải, vết thương mặt ngoài khuỷu tay trái: Sẹo bờ sắc gọn.
Các vết thương này khả năng do vật sắc hoặc vật sắc nhọn gây ra.
Công văn số 51/CV-PV ngày 16/3/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh D về việc phúc đáp Công văn số 304 ngày 28/02/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An, tỉnh D đối với tình trạng thương tích của bị hại Danh Thị Thu Tr, nhận định như sau: Trường hợp thương tích của bị hại Danh Thị Thu Tr nếu không điều trị cấp cứu kịp thời, khả năng không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Về thu giữ đồ vật:
Cơ quan điều tra thu giữ 01 (một) cây kéo bằng kim loại, màu đen; 01 (một) dây sạc điện thoại hiệu Samsung, màu trắng; 01 (một) dao thái lan, cán bằng gỗ, dài khoảng 15,5cm bị gãy phần lưỡi; 01 (một) lưỡi dao bằng kim loại bị gãy, dài khoảng 7cm là công cụ do Nguyễn Văn H sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Bị hại Danh Thị Thu Tr không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn H bồi thường thiệt hại.
Cáo trạng số 79/CT-VKSBD-P2 ngày 26/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Giết người”, quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội trong đó có nội dung: giữ nguyên quyết định cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo; đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức hình phạt từ 09 năm tù đến 10 năm tù.
Về xử lý vật chứng, tài sản, phương tiện thu giữ:
Căn cứ quy định tại các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cây kéo bằng kim loại, màu đen; 01 (một) dây sạc điện thoại hiệu Samsung, màu trắng;
01 (một) con dao Thái Lan, cán bằng gỗ, dài khoảng 15,5cm bị gãy phần lưỡi;
01 (một) lưỡi dao bằng kim loại bị gãy, dài khoảng 7cm.
Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp:
Bị hại Danh Thị Thu Tr không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn H bồi thường thiệt hại.
Người bào chữa Huỳnh Phi Y trình bày nội dung bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H: Thống nhất tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.
Bị hại không tranh luận.
Bị cáo Nguyễn Văn H thống nhất ý kiến của người bào chữa, không tranh luận bổ sung.
Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: các hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh D, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D đã truy tố, căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa cùng với những tài liệu, chứng cứ khác tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 26/9/2022, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh D, Nguyễn Văn H bực tức việc Danh Thị Thu Tr có lời nói xúc phạm mình nên nảy sinh ý định tước đoạt tính mạng của Tr. Khi Tr đang nằm ngủ, H đã dùng dây sạc điện thoại siết cổ, Tr vùng vẫy thoát ra được, liền bị H dùng dao, kéo đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng ngực, bụng và lưng của Tr cho đến khi H nhận thấy có một nhát đã đâm sâu vào vùng ngực của Tr mới dừng lại. Việc Nguyễn Văn H chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt hàng ngày với Danh Thị Thu Tr mà đã dùng những hung khí nguy hiểm tấn công liên tiếp vào cơ thể Tr một cách quyết liệt, thể hiện ý thức muốn tước đoạt tính mạng của Tr. Tuy nhiên, hậu quả Danh Thị Thu Tr không chết mà chỉ bị thương tích 33% (ba mươi ba phần trăm). Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 79/CT-VKSBD-P2 ngày 26/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D truy tố bị cáo Nguyễn Văn H với tội danh, khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết rõ hành vi dung dao, kéo là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng ngực là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại là trái pháp luật, có khả năng tước đoạt mạng sống của bị hại nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm, bất chấp hậu quả xảy ra, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp tính mạng, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân sinh sống tại khu vực. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: bị cáo có tình tiết tăng nặng là “Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội bị cáo đầu thú và tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D về tội danh, Điều luật, các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.
[7] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận một phần.
[8] Về trách nhiệm dân sự: bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[9] Về xử lý vật chứng trong vụ án:
Đối với 01 (một) cây kéo bằng kim loại, màu đen; 01 (một) dây sạc điện thoại hiệu Samsung, màu trắng; 01 (một) dao Thái Lan, cán bằng gỗ, dài khoảng 15,5cm bị gãy phần lưỡi; 01 (một) lưỡi dao bằng kim loại bị gãy, dài khoảng 7cm, là công cụ phương tiện bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Giết người” (chưa đạt).
2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 và Điều 15; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2022.
3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các Điều 47 và 48 của Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây kéo bằng kim loại, màu đen; 01 (một) dây sạc điện thoại hiệu Samsung, màu trắng; 01 (một) dao Thái Lan, cán bằng gỗ, dài khoảng 15,5cm bị gãy phần lưỡi; 01 (một) lưỡi dao bằng kim loại bị gãy, dài khoảng 7cm.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh D và Cục Thi hành án dân sự tỉnh D ngày 24 tháng 5 năm 2023).
5. Về án phí sơ thẩm:
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo và bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người (chưa đạt) số 87/2023/HS-ST
Số hiệu: | 87/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về