Bản án về tội giao cấu với trẻ em số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 03/8/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 32/2023/HSST ngày 13/06/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 20/07/2023 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Tấn Tr; sinh ngày 20 tháng 02 năm 1989; tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu; nơi cư trú: aTH2, xVB, hHB, tBL; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn K (chết); con bà Trần Thị N, sinh năm 1970;

- Anh chị em ruột: 01 người (sinh năm 1992).

- Vợ: Lưu Thị Nguyên, sinh năm 1997.

- Con : 01 người (sinh năm 2022).

- Tiền án, tiền sự: không.

- Bị can bị khởi tố và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 03/4/2023 đến nay. (Có mặt).

- Bị hại: Chị D Thị Thùy D, sinh ngày 07/06/2000. Nơi cư trú: a4, xPTA, txGR, tBL. (Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 02/3/2016, bà Lê Thị H đến Công an huyện Hoà Bình trình báo sự việc con của bà H là em D Thị Thuỳ D (sinh ngày 07/6/2000) có quen biết với Nguyễn Tấn Tr và bị Tr nhiều lần quan hệ tình dục với D tại nhà của Tr thuộc ấp Thạnh Hưng II, xã Vĩnh Bình, huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu.

Quá trình điều tra đã xác định được như sau: D Thị Thuỳ D và Nguyễn Tấn Tr quen biết và nảy sinh tình cảm yêu đương từ cuối năm 2015, đến ngày 13/12/2015 (03/11/2015 âm lịch), Tr đến nhà rủ D đi chơi nhưng cha mẹ D không đồng ý nên D trốn đi chơi cùng với Tr. Đến khoảng 00 giờ ngày 14/12/2015, Tr chở D về đến nhà Tr tại ấp Thạnh Hưng II, xã Vĩnh Bình, huyện Hoà Bình để ngủ. Tr hỏi D cho Tr quan hệ tình dục thì D đồng ý nên cả hai quan hệ tình dục khoảng 05 đến 10 phút thì Tr xuất tinh ra ngoài âm hộ của D rồi cả hai cùng ngủ đến sáng. Đến sáng ngày 14/12/2015, bà Lê Thị H (mẹ của D) và D Chí Ng (anh của D) đến đón D về.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ đầu tháng 12 năm 2015 đến ngày 13/12/2015, mỗi lần Tr chở D đi chơi xong (Từ 03 đến 04 lần) đều chở D về nhà Tr tại ấp Thạnh Hưng II, xã Vĩnh Bình, huyện Hoà Bình và thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nhau đến khoảng 02, 03 giờ sáng thì Tr chở D về nhà.

Quá trình điều tra còn xác định được: Từ ngày 15/12/2015 đến 22/12/2015 và từ ngày 10/02/2016 đến ngày 29/02/2016, D và Tr đến địa bàn tỉnh Đồng Nai thuê nhà trọ ở và tiếp tục có quan hệ tình dục thêm nhiều lần nữa (không nhớ số lần cụ thể) Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 16/TD ngày 05/5/2016 của trung tâm pháp y tỉnh Bạc Liêu đối với D Thị Thuỳ D kết luận: Màng trinh rách cũ ở vị trí 09 giờ.

Tại cáo trạng số 30/CT-VKSHB ngày 09/06/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Tr về tội: “ Giao cầu với trẻ em”, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình vẫn giữ nguyên bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 115, khoản b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Tr phạm tội “ Giao cấu với trẻ em”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Tr từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù;

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt khi nói lời nói sau cùng.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Tấn Tr thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, khai nhận tội của bị cáo Tr phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và lời khai của bị hai chị D Thị Thùy D, phù hợp với biên bản khám hiện Tr, sơ đồ hiện Tr, bản ảnh, biên bản nhận dạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận. Nguyễn Tấn Tr và em D Thị Thuỳ D quen biết và nảy sinh tình cảm với nhau từ cuối năm 2015. Từ đầu tháng 12 năm 2015 đến ngày 29/02/2016, Nguyễn Tấn Tr đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với em D tại nhà của bà Trần Thị Ng thuộc ấp Thạnh Hưng II, xã Vĩnh Bình, huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Căn cứ vào giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân xã Minh Diệu, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 19/11/2001 thì D Thị Thùy D , sinh ngày 07/06/2000, tại thời điểm bị xâm hại tình dục chị D Thị Thùy D được 15 tuổi 06 tháng. Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 16/TD ngày 05/05/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Bạc Liêu kết luận: Màng trinh rách cũ ở vị trí số 09 giờ.

Vì vậy, Cáo trạng số 30/CT-VKSHB ngày 06/06/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Tr về tội: “Giao cầu với trẻ em”, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[4] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự do tình dục của bị hại một cách trái pháp luật. Bị cáo nhận thức rõ việc lợi dụng tình trạng bị hại nhận thức hành vi để giao cấu là bị pháp luật trừng trị, nhận thức được vậy nhưng bị cáo đã cố tình thực hiện và dẫn đến hậu quả là bị hại. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và cũng là phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội, nhất là trong thời điểm hiện nay loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo như: Về tình tiết tăng nặng không có, về tình tiết giảm nhẹ. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đồng thời, trong quá trình điều tra bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000đồng, nhằm để bồi thường thiệt hại cho bị hại bị cáo đã bồi thường xong số tiền cho bị hại và bị hại gởi đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Tuy nhiên trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có nộp các tài liệu là giấy chứng nhận huy chương kháng chiến, giấy khen trong các tài liệu chứng minh được bà Lê Thị H là bà ngoại của bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, bị cáo được Chủ tịch huyện tặng giấy khen có thành thích xuất sắc trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc” năm 2013. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Tấn Tr đã thỏa thuận với người bị hại là chị D Thị Thùy D số tiền 2.000.000đồng, bị hại không yêu cầu gì thêm. Xét thấy, đây là sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo Nguyễn Tấn Tr với bị hại, sự tự nguyện trên không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần ghi nhận.

[7] Về vật chứng trong vụ án: Không có nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Từ những phân tích nêu trên xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình về mức hình phạt, trách nhiệm dân sự là có căn cứ chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 115, điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Tr phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Tr 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

2. Về án phí: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Tấn Tr phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với trẻ em số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về