TÒA ÁN ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KON RẪY, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 19/2021/ HS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM
Trong ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 7 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh H; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh tháng 4 năm 1997, tại tỉnh Kon Tum; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Thợ làm nhôm kính; Nơi cư trú: Thôn 05,thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum; Con ông Nguyễn Hân, sinh năm: 1960 và bà Nguyễn Thị Liên, sinh năm 1963, hiện cha, mẹ bị cáo đang sinh sống tại thôn 05, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum; Gia đình bị cáo có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1984, bị cáo là con út trong gia đình; Bị cáo có vợ tên Phạm Khánh Toàn Tâm, sinh năm 2002 hiện vợ bị cáo đang sinh sống tại thôn 05,thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum và bị cáo có 01 người con sinh năm 2015;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 20/5/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 2000. Địa chỉ: Thôn 03, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hằng, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn 02, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
- Những người làm chứng:
+ Anh Đinh Văn Hải, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn 03, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Bà Cao Thị Tường, sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn 03, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Bà Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1961. Địa chỉ: Thôn 05, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Anh Lê Ngọc Ty, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn 05, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
+ Ông Nguyễn Hân, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn 05, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
+ Bà Nguyễn Thị Liên, sinh năm 1963. Địa chỉ: Thôn 05, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian tháng 08 năm 2014, bị cáo Nguyễn Thanh H quen biết, rồi có quan hệ yêu thương với Nguyễn Thị T (SN: 02/8/2000, Trú tại: Thôn 03, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy). Sau đó, H đã nhiều lần giao cấu với T tại phòng trọ của T thuê ở thành phố Kon Tum, tại nhà của T tại thôn 3, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy và tại nhà của H tại thôn 5, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy. Đến tháng 03 năm 2015, T phát hiện mình có thai, rồi T nói cho H và hai bên gia đình biết. Đến tháng 05 năm 2015, hai bên gia đình của H và T, tổ chức đám cưới theo phong tục truyền thống cho T và H nhưng không báo với chính quyền địa phương. Sau đám cưới, H và T chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà của T tại thôn 3, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy. Đến ngày 10/10/2015, T sinh được 1 bé gái đặt tên là Nguyễn Ngọc Bích. Đến năm 2018 thì H và T mâu thuẫn, không chung sống với nhau nữa. Ngày 18 tháng 01 năm 2021, chị Nguyễn Thị T làm đơn tố cáo bị cáo H trước pháp luật.
Quá trình điều tra đã xác định: Nguyễn Thanh H có ngày tháng năm sinh theo giấy khai sinh là ngày 16/01/1996 nhưng H được đăng ký khai sinh quá hạn gần 06 năm (H được đăng ký khai sinh vào ngày 13/3/2002) và không có giấy tờ chứng sinh, tài liệu gì khác để xác định H sinh vào ngày 16/01/1996 nên Cơ quan điều tra đã đưa H đi giám định độ tuổi. Tại bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 422/C09C-Đ3 ngày 07/4/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Tính đến thời điểm tháng 4/2021, Nguyễn Thanh H từ 24 năm đến 26 năm. Áp dụng Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 và Điều 417 BLTTHS 2015, qua đó bị cáo H được xác định sinh vào tháng 04 năm 1997.
Tại bản kết luận giám định số 287/C09C-Đ3 ngày 17/3/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Nguyễn Ngọc Bích, sinh ngày 10/10/2015 là con đẻ của Nguyễn Thanh H với Nguyễn Thị T.
Trong quá trình điều tra, bị cáo H và người bị hại T đều khai nhận trong thời gian từ tháng 08 năm 2014 đến năm 2018, do có quan hệ yêu đương nên hai người đã đồng thuận quan hệ tình dục với nhau nhiều lần. Trong đó: Khoảng thời gian từ tháng 04 năm 2015 đến ngày 02/08/2016 (khoảng thời gian này bị hại Nguyễn Thị T là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi và bị cáo Nguyễn Thanh H là người đủ 18 tuổi), H và T cũng thuận tình giao cấu với nhau nhiều lần (khoảng từ 05 đến 10 lần) tại nhà của T tại thôn 3, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy và tại nhà của bị cáo H tại thôn 5, thị trấn Đắk Rve, huyện Kon Rẫy.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án bị hại Nguyễn Thị T yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh H phải bồi thường cho mình số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) và hàng tháng phải chu cấp tiền nuôi dưỡng con chung cháu Nguyễn Ngọc Bích. Đến ngày 17/8/2021 trước khi mở phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H đã gửi đầy đủ số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) qua tài khoản Ngân hàng của bà Nguyễn Thị Hằng để nhờ bà Nguyễn Thị Hằng chuyển khoản bồi thường cho chị T và chị T đã nhận đầy đủ số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), sau đó chị T đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo, đồng thời không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố số 14/CT-VKS ngày 28/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum và đề nghị áp dụng dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; sau khi phạm tội, bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho bị bị hại nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ “đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” cho bị cáo; đồng thời người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định tại các điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 47 Điều 33, điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Giao cấu với trẻ em”.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và cũng như trước khi mở phiên tòa bị hại đã được bồi thường đầy đủ số tiền theo yêu cầu (bao gồm tiền bồi thường về tinh thần và chi phí nuôi con) và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nữa và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H không yêu cầu gì đối với bị cáo, chị H xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp để nhanh trở về với gia đình, chăm sóc con cái.
Lời khai của những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên phù hợp với những gì đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố, bị cáo không có khiếu nại gì đối với kết luận giám định pháp y, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác cũng như với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[2.1]. Hội đồng xét xử xét thấy, có đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ tháng 08 năm 2014 đến năm 2018, bị cáo Nguyễn Thanh H và Nguyễn Thị T có quan hệ yêu đương với nhau, rồi hai người đã đồng thuận quan hệ tình dục với nhau nhiều lần. Sau đó, T có thai (lúc này H chưa đủ 18 tuổi), rồi sinh được 1 bé gái đặt tên là Nguyễn Ngọc Bích. Bị cáo H và T người sống chung với nhau như vợ chồng tại nhà của T đến năm 2018 thì không chung sống với nhau nữa. Trong đó: Khoảng thời gian từ tháng 04 năm 2015 đến ngày 02/08/2016 (khoảng thời gian này bị hại Nguyễn Thị T là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi và bị cáo Nguyễn Thanh H là người đã đủ 18 tuổi), bị cáo H và T đã thuận tình giao cấu với nhau nhiều lần.
Quá trình điều tra đã xác định: Nguyễn Thanh H có ngày tháng năm sinh theo giấy khai sinh là ngày 16/01/1996, nhưng H được đăng ký khai sinh quá hạn gần 06 năm (H được đăng ký khai sinh vào ngày 13/3/2002) và không có giấy tờ chứng sinh, tài liệu gì để xác định H sinh vào ngày 16/01/1996 nên Cơ quan điều tra đã đưa H đi giám định độ tuổi. Đồng thời tại phiên tòa bố mẹ bị cáo khai rằng việc lấy ngày tháng sinh cho bị cáo vào ngày 16/01 là lấy theo ngày tháng mà bố mẹ bị cáo cưới nhau (ngày 16/01) để làm ngày tháng khai sinh cho bị cáo, còn việc lấy năm 1996 để khai sinh cho bị cáo là tự lấy khi đi làm thủ tục khai sinh cho bị cáo vào năm 2002.
Tại bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 422/C09C - Đ3 ngày 07/4/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Tính đến thời điểm tháng 4/2021, Nguyễn Thanh H từ 24 năm đến 26 năm. Áp dụng vào Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 và Điều 417 BLTTHS 2015, qua đó bị cáo H được xác định sinh vào tháng 04 năm 1997.
Tại bản kết luận giám định số 287/C09C-Đ3 ngày 17/3/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Nguyễn Ngọc Bích, sinh ngày 10/10/2015 là con đẻ của Nguyễn Thanh H với Nguyễn Thị T Do vây, hành vi của bị cáo đã đủ cấu thành tội “Giao cấu với trẻ em” theo các điểm a Khoản 2 Điều 115 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 với tình tiết định khung tăng nặng là “Phạm tội nhiều lần”.
[2.2] Trong vụ án mặc dù bị cáo đã làm bị hại có thai, tuy nhiên tại thời điểm bị hại có thai, thì bị cáo là người chưa thành niên (chưa đủ18 tuổi).
Căn cứ Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 quy đinh về tội giao cấu với trẻ em :
“1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai”… Vì vậy, Viện kiểm sát không truy tố bị cáo thêm tình tiết định khung tăng nặng theo điểm d khoản 2 Điều 115 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.3] Bị cáo Nguyễn Thanh H đã thực hiện phạm tội trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018. Do đó khi so sánh tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a khoản 02 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tội “Giao cấu với trẻ em” quy định tại điểm a, d khoản 02 Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì đều có khung hình phạt bằng nhau. Căn cứ theo Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 thì hành vi trên của bị cáo Nguyễn Thanh H phải áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để xử lý, giải quyết.
[2.4] Từ những căn cứ trên, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giao cấu với trẻ em”, theo cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 28/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Rẫy đã truy tố bị cáo theo điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người đã đủ tuổi thành niên, có đầy đủ năng lực pháp luật, nhưng vì thiếu hiểu biết pháp luật mà bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu nhiều lần với chị T, tại thời điểm đó bị hại là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần của bị hại; gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân, trái với đạo đức xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người khác và đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và hậu quả bị cáo đã gây ra; cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội, bị cáo đã cùng bị hại chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bích. Đến ngày 17/8/2021 trước khi mở phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh H đã bồi thường cho bị hại đầy đủ số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) cho bị hại, bị hại đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo và đồng thời tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo có nhân thân tốt. Do đó, cần xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 khi lượng hình cho bị cáo.
Xét thấy bị cáo đã có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, nên HĐXX áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.
Áp dụng các điểm a khoản 2 Điều 115; điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 21; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm
3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (24/9/2021) bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để xin xét xử theo trình tự phúc thẩm./.
Bản án về tội giao cấu với trẻ em số 19/2021/HS-ST
Số hiệu: | 19/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kon Rẫy - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về