Bản án về tội giao cấu với người từ đủ mười 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 165/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 165/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ MƯỜI 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tòa án nhân dân huyện Việt Yên đã mở phiên tòa xét xử kín sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 171/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2020/QĐXXST- HS ngày 17/11/2020 đối với các bị cáo:

1-Họ và tên: Lưu Văn C- sinh năm 1985. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang; Tạm trú: Tổ dân phố My Điền 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Nghề nghiệp: Công Nhân; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lưu Văn C, sinh năm 1945, con bà: Nông Thị N, sinh năm 1944, vợ: Chẩu Thị Đ, sinh năm 1991, bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2011,Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba. - Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lưu Văn C; Ông Th Văn Dũng; Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm chợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Giang; Có mặt

2. Họ và tên: Lưu Văn D- sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang; Tạm trú: thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Công nhân; Văn hóa: 9/12; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Chẩu Văn G sinh năm 1973 (đã chết).Con bà: Lưu Thị Đ, sinh năm 1967, Vợ, con: Chưa có. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lưu Văn D; Ông Hoàng Trọng Nghĩa;Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Giang; Có mặt Bị hại: Chị Trần Thị Hồng H, sinh ngày 25/11/2004 do ông Trần Văn Xuân sinh năm 1981 ( bố bị hại) là người đại diện Xin vắng mặt

Địa chỉ; tổ dân phố Phúc Lý,phường Minh Khai,Quận Bắc Từ Liêm,TP Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại;

Bà Nguyễn Thị Như Quỳnh Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Giang; Có đơn xin vắng mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Chẩu Ngọc Th sinh năm 1971; có mặt

Địa chỉ: thôn T, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang

Anh Lưu Văn D1 sinh năm 1970 có mặt

Địa chỉ: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ ngày 30/3/2020, Lưu Văn C- sinh năm 1985, trú quán: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang sau khi hết giờ làm, C đi bộ một mình từ Công ty Fuhong thuộc Tập đoàn Hồng Hải khu công nghiệp Đình Trám, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về nhà trọ tại thôn My Điền 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Khi C khi đến đoạn đường gần nhà nghỉ Sao Mai thuộc thôn My Điền 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên thì gặp cháu Trần Thị Hồng H sinh ngày 25/11/2004, trú tại: tổ dân phố Phúc Lý 4, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đang đi bộ một mình, C làm quen nói chuyện với H. Sau đó, C rủ H đi vào nhà nghỉ và được H đồng ý. C và H đi vào thuê phòng 303, Nhà nghỉ Như Quỳnh thuộc thôn My Điền, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tại đây, C và H tự cởi quần áo của mình ra; C đã thực hiện hành vi giao cấu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 5 đến 7 phút, có sử dụng bao cao su có sẵn ở trong phòng, sau khi quan hệ xong C đã vứt bao cao su vừa sử dụng vào bồn cầu trong phòng, xả nước. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày 30/3/2020, C đưa H đi về phòng trọ của Lưu Văn D sinh năm 1996, trú quán: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (C là cậu của D) đang thuê trọ tại phòng trọ số 9, nhà trọ của bà Th Thị Hoàn sinh năm 1959, trú tại: thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tại đây, c giới thiệu cho D biết H là bạn mới quen, D đi mua rượu về C, D, H cùng ngồi uống rượu với nhau tại phòng trọ của D đến khoảng 10 giờ cùng ngày thì D đi ra ngoài có việc còn C, H ở lại trong phòng trọ. Đến khoảng 15 giờ ngày 30/3/2020, C tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 5 đến 7 phút, C sử dụng bao cao su ở trong ví mang theo người khi quan hệ, sau khi quan hệ xong thì C vứt bao cao su đã sử dụng vào bồn cầu, xả nước. Sau đó, C và H nằm ôm nhau trên giường; đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày 30/3/2020, C tiếp tục thực hiện hành vi giao cầu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 5 đến 6 phút, lần này C không sử dụng bao cao su.

Đến khoảng 16 giờ ngày 30/3/2020, D đi về phòng trọ, C nói với D về việc đã quan hệ tình dục với H. Sau đó, C đi làm còn H ở lại phòng trọ cùng D và ăn tối cùng nhau. Đến khoảng 19 giờ ngày 30/3/2020, D đã thực hiện hành vi giao cấu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 02 đến 03 phút, D sử dụng bao cao su có sẵn ở trong phòng, khi quan hệ xong D vứt bao cao su đã sử dụng vào bồn cầu, xả nước. Đến khoảng 22 giờ ngày 30/3/2020, D tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 25 đến 30 phút, khi quan hệ tình dục D không sử dụng bao cao su. Đến khoảng 23 giờ 45 phút ngày 30/3/2020, D thực hiện hành vi giao cấu 01 lần với cháu H trong thời gian khoảng 15 phút, khi quan hệ tình dục D không sử dụng bao cao su có sẵn ở trong phòng. Sau đó, D và H ôm nhau ngủ đến sáng ngày 31/3/2020.

Khoảng 09 giờ ngày 31/3/2020 thì C đi làm ca về phòng trọ của D. D đưa H ra bắt xe khách về Hà Nội; Sau đó, D gọi điện, nhắn tin qua facebook cho Lưu Văn Danh sinh năm 1993, trú tại: thôn Pạu xã Ngọc Minh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang hiện đang thuê trọ ở Phú Ninh, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đón cháu Trần Thị Hồng H.

Do biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên ngày 03/4/2020 Lưu Văn D đã đến Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đầu thú và khai nhận hành vi giao cấu với cháu H ngày 30/3/2020 tại địa bàn huyện Việt Yên và giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, số Imel; 866468033928112, gắn sim thuê bao số 0388729186. Cùng ngày 03/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã chuyển hồ sơ và đối tượng Lưu Văn D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 04/4/2020, Lưu Văn C đã đến Công an huyện Việt Yên đầu thú và giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, gắn sim thuê bao số 0335140996, 0375711728.

Ngày 03/4/2020, Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi Lưu Văn c, Lưu Văn D đã giao cấu với cháu Trần Thị Hồng H xác định: Phòng trọ số 9 nhà trọ của bà Th Thị Hoàn sinh năm 1959, trú tại: thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; phía Bắc giáp ao của thôn Phúc Long, phía Nam tiếp giáp nhà ở của nhà bà Hoàn, phía Tây giáp Đình thôn Chùa, phía Đông tiếp giáp nhà ông Nguyễn Văn Phương. Cửa ra vào phòng được làm bằng sắt, trong phòng tại vị trí phía Tây và Bắc được kê 01 chiếc giường bằng sắt kích thước (1,97x1,56)m, tại vị phía Tây và Bắc được bố trí 01 phòng vệ sinh khép kín, bên trong có 01 bồn cầu, tại vị trí tiếp giáp tường phía Nam phát hiện 01 sọt rác màu xanh kích thước (26x25)cm bên trong đựng rác sinh hoạt, kiểm tra phát hiện thu giữ 01 vỏ hộp đựng bao cao su màu trắng, nhãn hiệu Supe, 02 vỏ túi đựng bao cao su màu vàng nhãn hiệu Supe.

Ngày 04/4/2020, Cơ quan điều tra tiến hành hành khám nghiệm hiện trường nơi Lưu Văn C đã giao cấu với cháu Trần Thị Hồng H xác định: Phòng số 303, tầng 3 nhà nghỉ Như Quỳnh thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; phía Bắc giáp quán gà Mạnh Hoạch, phía Nam giáp cửa hàng quần áo. Cửa ra vào phòng được làm bằng gỗ, trong phòng tại vị trí giáp tường phía Đông và phía Nam được kê 01 chiếc giường bằng gỗ kích thước (2x1,5)m, trên giường có trải đệm ga màu đỏ hoa văn hình tròn màu vàng đen, phía giáp tường phía Tây và tường phía Nam được bố trí 01 phòng vệ sinh khép kín.

Tại bản kết giám định pháp y số 9378A/20/TD ngày 08/4/2020 của Trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận: Cháu Trần Thị Hồng H: Màng trinh: Giãn rộng, có nhiều khía rách cũ đến hết gốc màng trinh. Không sung huyết, không chảy máu. Không có tinh trùng trong âm đạo cháu H. Không xác định được thời gian và cơ chế gây tổn thương. Hiện tại cháu H không có thai.

Tại bản kết giám định pháp y về thương tích số 9378B/20/TgT ngày 08/4/2020 của Trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận: Cháu Trần Thị Hồng H: Khám toàn Th không thấy dấu hiệu thương tích.

Ngày 10/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên đã lấy 10 mẫu niêm mạc trong khoang miệng của Lưu Văn C để giám định ADN. Ngày 01/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên đã ra quyết định ủy thác cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội trung cầu giám định ADN.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về ADN số 330/TTPY ngày 24/4/2020 của Trung tâm y tế- Sở y tế Hà Nội kết luận:

- Tại thời điểm giám định trên cơ thể Lưu Văn D không có vết xây xát, sưng nề, bầm tím, không rách da, không chảy máu. Vì vậy không có tỷ lệ tổn hại sức khỏe.

- Bản kết luận giám định ADN số HT54.20/PY-XN ngày 15/4/2020 của Viện pháp y Quân đội:

+ Dấu vết trên gạc lau rửa bộ phận sinh dục của Lưu Văn D có ADN của Lưu Văn D, không tìm thấy ADN của nạn nhân Trần Thị Hồng H.

+ Dấu vết trên mẫu quần lót của nạn nhân Trần Thị Hồng H có ADN bị trộn lẫn của ít nhất 04 người, trong đó có ADN của Lưu Văn D.

+ Dấu vết trên tăm bông thấm dịch âm đạo của nạn nhân Trần Thị Hồng H có nhiễm sắc thể Y trùng với nhiễm sắc thể của Lưu Văn Danh hoặc Lưu Văn D hoặc của Lưu Văn Danh và của Lưu Văn D (do Lưu Văn Danh và Lưu Văn D là anh em ruột có ADN nhiễm sắc thể Y giống nhau).

Tại bản Kết luận giám định pháp y về ADN số 10/TTPY ngày 29/6/2020 của Trung tâm y tế - Sở y tế Hà Nội kết luận:

- Dấu vết trộn lẫn trên mẫu quần lót của nạn nhân Trần Thị Hồng H có ADN bị trộn lẫn của ít nhất 04 người, trong đó có ADN trùng khớp với ADN của Lưu Văn c trên các locus gen phân tích được.

- Không phát hiện thấy ADN nhiễm sắc thể Y của Lưu Văn c từ dấu vết trên tăm bông thấm dịch âm đạo của nạn nhân Trần Thị Hồng H.

Ngày 04/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành cho cháu Trần Thị Hồng H nhận dạng người đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu H ngày 30/3/2020 tại nhà nghỉ Như Quỳnh thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và tại nhà trọ ở thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Kết quả nhận dạng cháu Trần Thị Hồng H đã nhận ra Lưu Văn c và Lưu Văn D là người đã đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu H.

Ngày 10/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tiến hành cho Lưu Văn C, Lưu Văn D nhận dạng qua ảnh người đã quan hệ tình dục với C, D ngày 30/3/2020 tại nhà nghỉ Như Quỳnh thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và tại nhà trọ ở thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Kết quả nhận dạng Lưu Văn C, Lưu Văn D đã nhận ra ảnh cháu Trần Thị Hồng H là người đã quan hệ tình dục với C và D.

Quá trình điều tra, bị hại và đại diện hợp pháp bị hại có đơn trình báo tố giác anh Th Văn Thắng- sinh năm 1984, trú tại: tổ dân phố Mỹ Điền, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có hành vi quan hệ tình dục với cháu Trần Thị Hồng H tại nhà nghỉ Sao Mai ở tổ dân phố My Điền 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang trong khoảng thời gian từ ngày 24/3/2020 đến ngày 30/3/2020. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với anh Th Văn Thắng kết quả anh Thắng khai không quen biết, không quan hệ tình dục với cháu H. Ngoài lời khai của cháu H ra không có tài liệu, chứng cứ nào khác xác định anh Th Văn Thắng đã có hành vi quan hệ tình dục với cháu H nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định pháp luật.

Quá trình điều tra bị hại, đại diện hợp pháp bị hại có đơn trình báo tố giác Lưu Văn Danh sinh năm 1993, trú tại; thôn p, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang có hành vi giao cấu với cháu H tại địa bàn phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội ngày 31/3/2020. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã khởi tố điều tra đối với Lưu Văn Danh về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên không đề cập xử lý.

Khi cho Lưu Văn D, Lưu Văn C thuê phòng ở trọ, phòng để nghỉ bà Th Thị H, anh Hoàng Văn Đoàn không biết việc C, D có hành giao cấu với cháu H nên không vi phạm pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra các bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho cháu Trần Thị Hồng H tổng số tiền 35.000.000 đồng (trong đó: gia đình bị cáo C bồi thường 30.000.000 đồng, gia đình bị cáo D bồi thường 5.000.000 đồng). Đến nay bị hại, đại diện hợp pháp bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo C, D.

Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay;

Lưu Văn C khai nhận toàn bộ hành vi: Khoảng 05 giờ ngày 30/3/2020, Lưu Văn C- sinh năm 1985, trú quán: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang đi bộ một mình từ Công ty Fuhong thuộc Tập đoàn Hồng Hải thuộc khu công nghiệp Đình Trám, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về nhà trọ tại thôn My Điền 1 thì gặp cháu Trần Thị Hồng H sinh ngày 25/11/2004, trú tại: tổ dân phố Phúc Lý 4, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, c rủ H đi vào nhà nghỉ và H đồng ý. Tại nhà nghỉ phòng 303 c và H tự cởi quần áo ra thực hiện hành vi giao cấu với nhau. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày 30/3/2020, C đua H đi về phòng trọ của Lưu Văn D sinh năm 1996, trú quán: thôn p, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (C là cậu của D)Tại đây sau khi ăn uống song trong khoảng từ 15 giờ đến 15 giờ 45 phút ngày 30/3/2020, C tiếp tục giao cấu với cháu H 02 lần sau đó C đi làm còn H ở lại phòng trọ cùng D và ăn tối cùng nhau, đến hôm sau đi làm về thì C và D đua H ra xe đi về Hà Nội. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Lưu Văn D khai nhận; Trong khoảng từ 19 giờ cho đến khoảng 23 giờ 45 phút ngày 30/3/2020, D thực hiện hành vi giao cấu 03 lần với cháu H, mỗi lần giao cấu với H từ 03 đến 15 phút. Sau đó, D và H ôm nhau ngủ đến sáng ngày 31/3/2020 sau đó C và D đua H ra đi xe về Hà nội. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Chị H do ông Xuân đại diện đều vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử trích đọc lời khai của chị H, ông Xuân các bị cáo đều không có ý kiến gì.

Ông Th trình bầy ông là bố vợ của C do hoàn cảnh gia đình khó khăn cho nên C phải đi làm công nhân ở Bắc Giang. Sau khi nhận được tin C bị bắt C có nói với gia đình là bồi thường cho bị hại cho nên gia đình ông đã nhiều lần đến gia đình ông Xuân và cháu H nhiều lần xin lỗi và bồi thường cho cháu H 30.000.000đ. Ông Xuân và cháu H có đơn xin cho C.Nay ông xác định số tiền 30.000.000đ ông đã bồi thường là ông cho c và ông không yêu cầu gì chỉ xin giảm nhẹ cho c.

Ông D1 trình bầy ông là anh của C và là cậu của D do hoàn cảnh gia đình khó khăn cho nên D và C phải đi làm công nhân ở Bắc Giang. Sau khi nhận được tin c và D bị bắt D và c có nói với gia đình là bồi thường cho bị hại cho nên gia đình ông đã nhiều lần đến gia đình ông Xuân và cháu H nhiều lần xin lỗi và ông đã thay D bồi thường cho cháu H 5.000.000đ. Ông Xuân và cháu H có đơn xin cho C và D. Nay ông xác định số tiền 5.000.000đ ông đã bồi thường ông không yêu cầu gì chỉ xin xem xét giảm nhẹ cho C và D.

Từ nội dung trên cáo trạng số 162/CT-VKS ngày 09 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đâ truy tố Lưu Văn C, Lưu Văn D, về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo Điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ và nhân Th của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đề nghị:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, điều 38 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lưu Văn C, Lưu Văn D;

Xử phạt; Lưu Văn C, từ 27 tháng đến 30 tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 04/4/2020. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Xử phạt; Lưu Văn D, từ 24 tháng đến 27 tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam ngày 04/4/2020. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng

Về án phí: Các bị cáo đều thuộc hộ nghèo và ở nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc HỘI về án phí, lệ phí tòa án miễn án phí cho các bị cáo và đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

Người bào chữa cho bị cáo C và bị cáo D đều nhất trí với bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Lưu Văn C, Lưu Văn D phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội và hoàn toàn thống nhất với tình tiết, tăng nặng giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đã áp dụng cho các bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và động viên gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại,các bị cáo đều không có tiền án tiền sự và đều có nhân thân tốt nên xử phạt bị cáo mức án thấp để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và đề nghị của Viện kiểm sát hơi cao cho nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo C từ 18 tháng đến 24 tháng tù, phạt D từ 18 tháng đến 22 tháng tù cũng đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa, bài phát biểu quan điểm thể hiện thống nhất với bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Lưu Văn C, Lưu Văn D phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự. Cũng hoàn toàn thống nhất với tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đâ áp dụng cho các bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, không tiền án tiền sự, nên xử phạt bị cáo mức án thấp cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội. về trách nhiệm dân các bị cáo đã bồi thường toàn bộ cho bị hại bồi thường tiền tổn thất tinh thần theo yêu cầu gia đình bị hại với số tiền 35.000.000đ đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo và bị hại. Trên đây là ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại, mong Hội đồng xét xử xem xét trước khi ra bản án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện cơ bản theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Khoảng 05 giờ ngày 30/3/2020, Lưu Văn C- sinh năm 1985, trú quán: thôn P, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang đi bộ một mình từ Công ty Fuhong thuộc Tập đoàn Hồng Hải thuộc khu công nghiệp Đình Trám, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang về nhà trọ tại thôn My Điền 1 thì gặp cháu Trần Thị Hồng H sinh ngày 25/11/2004, trú tại: tổ dân phố Phúc Lý 4, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, C rủ H đi vào nhà nghỉ và H đồng ý. Tại nhà nghỉ phòng 303 C và H tự cởi quần áo ra thực hiện hành vi giao cấu với nhau. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày 30/3/2020, c đưa H đi về phòng trọ của Lưu Văn D sinh năm 1996, trú quán: thôn p, xã N M, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (C là cậu của D)Tại đây sau khi ăn uống song trong khoảng từ 15 giờ đến 15 giờ 45 phút ngày 30/3/2020, c tiếp tục giao cấu với cháu H 02 lần sau đó c đi làm còn H ở lại phòng trọ cùng D và ăn tối cùng nhau. Trong khoảng từ 19 giờ cho đến khoảng 23 giờ 45 phút ngày 30/3/2020, D thực hiện hành vi giao cấu 03 lần với cháu H. Mỗi lần giao cấu với H từ 03 đến 15 phút. Sau đó, D và H ôm nhau ngủ đến sáng ngày 31/3/2020 sau đó c và D đưa H ra đi xe về Hà nội.

- Kết luận giám định ADN số HT54.20/PY-XN ngày 15/4/2020 của Viện pháp y Quân đội kết luận; Dấu vết trên mẫu quần lót của Trần Thị Hồng H có ADN bị trộn lẫn của ít nhất 04 người, trong đó có ADN của Lưu Văn D. Dấu vết trên tăm bông thấm dịch âm đạo của nạn nhân Trần Thị Hồng H có nhiễm sắc thể Y trùng với nhiễm sắc thể của Lưu Văn D.

-Kết luận giám định pháp y về ADN số 10/TTPY ngày 29/6/2020 của Trung tâm y tế- Sở y tế Hà Nội kết luận: Dấu vết trộn lẫn trên mẫu quần lót của Trần Thị Hồng H có ADN bị trộn lẫn của ít nhất 04 người, trong đó có ADN trùng khớp với ADN của Lưu Văn c trên các locus gen phân tích được.

Người bào chữa cho các bị cáo C và bị cáo D cũng xác định các bị cáo phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” được quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Lưu Văn C, Lưu Văn D phạm tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” được quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các Bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bị hại, người đại diện cho bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, ngoài ra các bị cáo đều có bố mẹ có công với cách mạng tham gia dân công hỏa tuyến trong giai đoạn khó khăn nhất cho nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét về vai trò các bị cáo thấy rằng tuy C và D không bàn bạc nhưng C có vai trò chính bởi lẽ C sau khi giao cấu với chị H ở nhà nghỉ xong lại đưa chị H về nhà do D thuê sau đó lại tiếp tục giao cấu với cháu H sau đó mới đến D vì vậy C có vai trò cao hơn

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến nhân phẩm, danh dự, tâm sinh lý và sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi. Làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động và bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để giáo dục riêng và góp phần ngăn để phòng ngừa C. Xong xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú, khai báo thành khẩn biết ăn năn hối cải. Tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho các bị cáo Vì vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần đáng kể khi lương hình. Xét thấy sau khi phạm tội các bị cáo đã đầu thú, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bị hại, người đại diện cho bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51 BLHS hơn nữa các bị cáo nhất thời phạm tội, có nhân Th tốt, là người dân tộc Tày sự nhận thức về pháp luật còn hạn chế xét thấy cần áp dụng khoản 1 điều 54 cho các bị cáo hưởng mức án thấp dưới khung hình phạt cũng đủ sức răn đe và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với các bị cáo. Đồng thời cũng đủ thời gian giáo dục, giúp đỡ các bị cáo sửa chữa sai lầm trở thành công dân có ích cho xã hội. Người bào chữa cho bị cáo và đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại đều đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp dưới khung hình phạt để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình xét thấy là phù hợp cần chấp nhận.

Về dân sự: bị hại, người đại diện cho bị hại đã được bồi thường toàn bộ thiệt hại không yêu cầu cho nên không xem xét.

Về tang vật của vụ án Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự chiếc điện thoại oppo số IMEI 866468033928112 lắp số thuê bao 0388729186 là của C, 01 chiếc điện thoại Masstl lắp số thuê bao 0335140996 và 0375711728 là của D đều không liên quan đến quá trình thực hiện hành vi phạm tội trả cho c và D nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí; Do bị cáo thuộc hộ nghèo, kinh tế khó khăn ở địa phương cho nên cần áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo D, C

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 điều 54, điều 38 Bộ luật Hình sự, các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; đối với các bị cáo Lưu Văn C, Lưu Văn D

Xử phạt; Lưu Văn C; 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ mười 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 04/4/2020.

Xử phạt; Lưu Văn D 22 (Hai mươi hai) tháng tù về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 04/4/2020.

Về tang vật; Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Trả cho C 01 chiếc điện thoại oppo số IMEI 866468033928112 lắp số thuê bao 0388729186, trả cho D 01 chiếc điện thoại Masstl lắp số thuê bao 0335140996 và 0375711728.

Báo cho bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết quyền được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ mười 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 165/2020/HS-ST

Số hiệu:165/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về