Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 97/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 97/2020/HSST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 96/2020/TLST – HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Lê Tất K, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1999. Nơi cư trú: thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Thái Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Tất K1, sinh năm 1974 con bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970 đều trú tại thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Thái Bình, bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự : Không.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 07/12 sau đó lao động tự do tại địa phương. Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 16/8/2020, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. (Có mặt) Bị hại: Cháu Đặng Phương T2, sinh ngày 26/7/2007

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Đặng Văn T3, sinh năm 1985 Đều trú tại: thôn N, xã K2, huyện L, TP Hải Phòng (Anh T3 có mặt, cháu T2 có đơn xin xử vắng mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại:

Bà Đỗ Thị Diệu - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

Đại diện Trường THCS Kiến Thiết nơi cháu Thảo đang học tập: Thầy giáo: Vũ Văn T4 - Hiệu trưởng nhà trường. (Có mặt)

Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T5, sinh năm 1970. (Vắng mặt) Nơi cư trú: thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Tất K và cháu Đặng Phương T2 quen biết nhau qua mạng Facebook từ tháng 6/2020, vào tối ngày 12/8/2020, cháu T2 và K có hẹn và gặp nhau lần đầu tiên tại chân cầu phao Đăng thuộc địa bàn xã K2, huyện L, TP Hải Phòng, trong khi ngồi nói chuyện K rủ cháu T2 ngày 13/8/2020 sang nhà K chơi, T2 đồng ý. Đến khoảng 11 giờ ngày 13/8/2020, K đi xe mô tô sang nhà đón cháu T2 rồi về nhà K chơi, cháu T2 ở nhà K tại thôn P, xã A từ trưa ngày 13/8/2020 đến tối ngày 15/8/2020. Trong thời gian ở nhà K, K và cháu T2 có quan hệ tình dục với nhau 02 lần, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào tối ngày 13/8/2020, sau khi ăn cơm ở nhà K, cháu T2 và K đi bộ đi chơi đến 21 giờ thì cả hai về nhà K ngủ, K và cháu T2 ngủ một giường còn mẹ K và các em ngủ một giường. Đến khoảng 22 giờ 30 phút, khi thấy mẹ và các em ngủ say, K quay sang hỏi cháu T2 cho quan hệ tình dục, cháu T2 nói không nhưng khi K ôm hôn, sờ người T2, T2 không phản đối, nên K cởi quần dài và quần lót của T2 đến đầu gối rồi tự cởi quần của mình và nằm đè lên người T2, K đưa dương vật của mình vào âm đạo cháu T2, quan hệ được khảng 02 phút, cháu T2 kêu đau bụng, K dừng lại không quan hệ nữa và cả hai cùng đi ngủ.

Lần thứ 2: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/8/2020, cũng tại chiếc giường trên, K và cháu T2 tiếp tục quan hệ tình dục với cách thức và diễn biến như tối ngày 13/8/2020. Tuy nhiên lần này K và cháu T2 quan hệ tình dục khoảng 10 phút rồi K xuất tinh vào âm đạo cháu T2, sau đó K và T2 đi rửa rồi tiếp tục đi ngủ.

Đến tối ngày 15/8/2020 khi K và cháu T2 về lấy quần áo từ bạn cháu T2 tại chân cầu phao Đăng thuộc xã K2, huyện L thì bị bố mẹ cháu T2 bắt gặp. Đến ngày 16/8/2020, gia đình cháu T2 có đơn trình báo công an huyện T, cùng ngày K đến cơ quan công an huyện T đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Bản kết luận giám định pháp y tình dục số 21/20/TD ngày 21/8/2020 của trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình kết luận: "Trên toàn bộ cơ thể bên ngoài của cháu Đặng Phương T2 không phát hiện dấu vết gì. Màng trinh: vị trí 10h có vết rách cũ sâu khoảng 02mm, vị trí 3h, không tìm thấy tinh trùng, xác tinh trùng trong âm đạo".

Bản kết luận giám định số 56/10/C09 ngày 15/9/2020 của Viện khoa học- Bộ công an, kết luận:"Trên chiếc quần lót và trên quần dài của cháu Đặng Phương T2 có bám dính tinh trùng người và tinh trùng là của Lê Tất K" Bản cáo trạng số 100/CT- VKSTT ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Lê Tất K về tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, bị cáo đồng ý bồi thường tổn thất cho bị hại số tiền 15.000.000 đồng, nhưng hiện tại bị cáo đang bị tạm giam, chưa có điều kiện bồi thường, khi nào bị cáo chấp hành xong hình phạt về sẽ có trách nhiệm bồi thường cho bị hại.

Người đại diện hợp pháp bị hại (anh T3) trình bày: Anh yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho cháu T2 số tiền 15.000.000 đồng, anh đồng ý khi nào bị cáo chấp hành xong hình phạt thì sẽ có trách nhiệm bồi thường số tiền trên, về hình phạt anh đề nghị xử phạt bị cáo thật nghiêm khắc.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại và đại diện nhà trường nơi cháu T2 học tập đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo đúng người, đúng tội theo quy định của pháp luật .

Luận tội của Kiểm sát viên: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Tất K phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ".

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, Điều 38 Điều 50, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Tất K từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 16/8/2020. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa người đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo, bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy 01 quần lót, 01 quần bò của cháu T32, mẫu tóc và mẫu tế bào niêm mạc miệng của bị cáo K, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người đại diện hợp pháp của bị hại cho rằng Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng là không thỏa đáng, đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo từ 05 năm đến 07 năm tù.

Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh và điều luật áp dụng, nhận thức về hành vi phạm tội, không tranh luận gì, nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Bị hại có đơn xin xử vắng mặt, người làm chứng vắng mặt nhưng tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án [3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, bản kết luật giám định, biên bản quản lý vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Do quen biết nhau qua mạng Facebook nên tối ngày 13/8/2020 và tối ngày 14/8/2020, Lê Tất K đã quan hệ tình dục với cháu Đăng Phương T2, sinh ngày 26/7/2007 hai lần tại nhà ở của mình ở thôn P, xã A, huyện T, tỉnh Thái Bình. Bị cáo là người đã trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thời điểm phạm tội, bị cáo phải biết bị hại dưới 16 tuổi, phải nhận thức được việc thực hiện hành vi giao cấu với người dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật dù được bị hại đồng ý nhưng vẫn thực hiện 02 lần với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật

Điều 145. Tội giao cấu với ngƣời từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm .

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

a) Phạm tội 02 lần trở lên.

..............................................................................................................................................................................................................................................................................................

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm

[5]. Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển toàn diện của trẻ em được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho các bậc cha mẹ trong việc bảo vệ con trẻ khi ra khỏi nhà. Thời điểm bị cáo phạm tội, bị hại là cháu Đặng Phương T2 mới 13 tuổi 12 ngày, do đó cần phải quyết định một hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội của bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị phát hiện, bị cáo đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo là người lao động tự do nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 145 Bộ luật hình sự.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường số tiền trên nhưng hiện tại bị cáo đang bị tạm giam, khi nào bị cáo chấp hành xong hình phạt sẽ bồi thường số tiền trên cho bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại đồng ý nên cần ghi nhận sự thỏa thuận này.

[7].Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã quản lý thu giữ của cháu T2 01 quần lót, 01 quần dài, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại không đề nghị nhận lại và mẫu tóc cùng tế bào niêm mạc miệng của bị cáo Khang do cơ quan điều tra lấy mẫu gửi giám định, xét những vật chứng nêu trên không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Lê Tất K phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi".

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản điểm a khoản 2 Điều 145, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Tất K 03 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2020 Không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 145 Bộ luật hình sự đối với bị cáo

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585 và Điều 590 Bộ luật Dân sự:

Ghi nhận việc bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại thỏa thuận về trách nhiệm dân sự (Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại thỏa thuận bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại tiền tổn thất tinh thần là 15.000.000 đồng, hiện bị cáo chưa bồi thường) Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

4. Về sử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 quần lót, 01 quần dài thu giữ của cháu T2, mẫu tóc cùng tế bào niêm mạc miệng của bị cáo K. (Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 30/11/2020).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án Bị cáo Lê Tất K phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm

6. Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

726
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 97/2020/HSST

Số hiệu:97/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về