Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 58/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:

Phạm Văn HH, sinh ngày 12 tháng 7 năm 1981 tại Thái Bình; nơi cư trú: Thôn ML3, xã VH, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Q và bà Phạm Thị B; có vợ là Trương Ngọc T; có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Từ tháng 02 năm 2000 đến tháng 7 năm 2002 tham gia nghĩa vụ quân sự tại Tiểu đoàn X, trường S, Bộ TLPB, Bộ Quốc phòng; trước khi bị bắt HH là Sỹ quan dự thuộc lực lượng dự bị động viên của Ban Chỉ huy Quân sự huyện V, tỉnh Thái Bình, khi thực hiện hành vi phạm tội HH không trong thời gian tập trung huấn luyện, không phối hợp với Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến đấu hay phục vụ chiến đấu; bị bắt tạm giam từ ngày 02 tháng 4 năm 2021 cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Thái Bình. (có mặt)

- Bị hại: Cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 09 tháng 02 năm 2008; địa chỉ: Thôn N, xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm 1981 và chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1991 (là bố mẹ đẻ của cháu H); địa chỉ: Thôn N, xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình. (có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị H, Trợ giúp viên Pháp lý của Trung tâm Trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Bình. (có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn C, xã X, huyện V, tỉnh Thái Bình. (có mặt)

2. Ông Trần Sỹ H, sinh năm 1959; nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

3. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1975 và bà Trần Thị L, sinh năm 1969;

địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

4. Anh Phạm Tiến Tr, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn H, xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

5. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

- Đại diện trường Trung học Cơ sở MK, huyện V, tỉnh Thái Bình: Bà Lê Thị B, Giáo viên. (có mặt)

- Đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình: Ông Trần Văn C, Phó Bí thư. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 02 năm 2021, Phạm Văn HH và cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 09 tháng 02 năm 2008, học sinh lớp 7C trường THCS MK, huyện V, tỉnh Thái Bình làm quen, kết bạn với nhau trên mạng xã hội Facebook. HH sử dụng tài khoản Facebook là “Hai Do Pham”, cháu H sử dụng tài khoản Facebook là “Hà Idol”, “Hà Dg Ik Hok” để nhắn tin, liên lạc với nhau. Trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 2021 đến tháng 3 năm 2021, HH và cháu H hẹn gặp nhau 04 lần, trong đó tại lần gặp thứ 04 vào ngày 16 tháng 3 năm 2021, HH đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu H, khi đó cháu H được 13 năm 01 tháng 07 ngày tuổi, cụ thể: Khoảng 16 giờ ngày 16 tháng 3 năm 2021, cháu H nhắn tin qua ứng dụng Facebook Messenger hẹn HH đến đón Hà đi chơi, HH đồng ý. Khoảng 17 giờ cùng ngày, HH điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 30A - 258.57 (xe HH mượn của bạn là Đỗ Văn C) đi từ trang trại của HH ở xã H, huyện V, tỉnh Thái Bình đến đón cháu H ở khu vực gần cổng UBND xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình. Sau đó, HH chở cháu H đến nhà nghỉ ĐN thuộc địa phận thôn BS, xã TT, huyện V, tỉnh Thái Bình thuê phòng 207 rồi dẫn cháu H lên phòng. Khi vào phòng 207, cháu H nằm ngủ trên giường, HH ngồi cạnh xem điện thoại. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, cháu H ở lại phòng, HH đi xe ô tô về trang trại của HH. Khoảng 19 giờ cùng ngày, C gọi điện bảo HH đi xe ô tô ra khu vực cầu Nhất thuộc xã TL, huyện V, tỉnh Thái Bình để đón ông Phạm Văn Đ (người quen của C) và đưa về nhà ở huyện Đ. HH điều khiển xe ô tô đi đón ông Đ đi theo Quốc lộ 10 hướng về thành phố Thái Bình. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà nghỉ ĐN thì HH dừng xe bảo ông Đ ngồi chờ, HH đi bộ vào nhà nghỉ ĐN, lên phòng 207 gọi cháu H dậy rủ đi cùng. HH gửi chìa khóa phòng cho ông Trần Sĩ H (nhân viên lễ tân) và nói “Cho cháu gửi chìa khóa, tý cháu về”. Sau đó, HH điều khiển xe ô tô đưa ông Đ về huyện Đ rồi cùng cháu H quay lại nhà nghỉ ĐN, lúc này khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày. Do cháu H bị say xe nên khi đến sân nhà nghỉ, HH xuống xe vào gặp ông H lấy chìa khóa, lên mở cửa phòng rồi xuống cõng cháu H từ xe ô tô lên phòng nghỉ. Cháu H nằm ngủ trên giường, HH ngồi xem điện thoại. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, HH điều khiển xe ô tô về trang trại nấu đồ ăn mang lên cho cháu H. Đến khoảng 00 giờ 23 phút ngày 17 tháng 3 năm 2021, HH điều khiển xe ô tô quay lại nhà nghỉ ĐN, lên phòng 207, mang đồ ăn đến nhưng cháu H không ăn, HH đi tắm. Sau khi tắm xong, HH không mặc quần áo, chỉ quấn khăn tắm rồi ra giường nằm cạnh cháu H. Sau đó, HH đã một lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu H, được sự đồng ý của cháu H. Khi thực hiện hành vi giao cấu với cháu H, HH không đeo bao cao su, HH đưa dương vật vào âm đạo của cháu H sau đó rút ra, xuất tinh ngoài âm đạo. Sau đó, HH nằm ngủ cạnh cháu H đến khoảng 05 giờ ngày 17 tháng 3 năm 2021 HH điều khiển xe ô tô về trang trại và đến 06 giờ 15 phút cùng ngày, HH quay lại đón và chở cháu H về khu vực cổng trường THCS MK, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 09/TD ngày 31 tháng 3 năm 2021, Trung tâm Pháp y Sở Y tế Thái Bình kết luận: Trên toàn bộ bên ngoài cơ thể cháu Nguyễn Thu H hiện không phát hiện thấy dấu vết gì. Màng trinh giãn, đường kính xấp xỉ 2cm, hình hoa khế, vị trí 9h - 10h, 2h - 3h, 6h - 7h có vết rách cũ, không bầm tím, không chảy máu. Cháu Nguyễn Thu H không có thai. Xét nghiệm HIV: Âm tính.

Quá trình điều tra, ban đầu Phạm Văn HH không thừa nhận hành vi giao cấu với cháu H tại nhà nghỉ ĐN. Qua thu thập tài liệu, chứng cứ bổ trợ, đấu tranh, HH đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên nhưng khai báo quanh co, nhỏ giọt, liên tục thay đổi lời khai.

Tại cơ quan điều tra, anh Nguyễn Hồng S, là bố đẻ và là người đại diện của cháu Nguyễn Thu H yêu cầu Phạm Văn HH bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của cháu H với số tiền là 50.000.000 đồng. Về bồi thường thiệt hại, HH đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Cáo trạng số 53/CT-VKSVT ngày 10 tháng 9 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Phạm Văn HH về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Phạm Văn HH thừa nhận có hành động đưa dương vật vào bên trong âm đạo của cháu H nhưng bị cáo cho rằng đây là do lỗi của cháu H, vì cháu H đã chủ động ôm, hôn, đè lên người bị cáo trước, chứ bị cáo không phải cố ý hay có ý định giao cấu với cháu H từ trước.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn HH phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng khoản 1 Điều 145, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Văn HH mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam. Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 592 Bộ luật Dân sự, buộc HH phải có trách nhiệm bồi thường cho cháu H số tiền từ 12 triệu đồng đến 15 triệu đồng. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng thu giữ trong vụ án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Văn HH đồng ý với tội danh Viện kiểm sát đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Người đại diện hợp pháp cho cháu Nguyễn Thu H trình bày: Tại phiên tòa, bị cáo HH thừa nhận có giao cấu với cháu H nhưng bị cáo không cố ý, đổ lỗi là do cháu H tự nguyện, đổ lỗi cho gia đình không quản lý con, điều đó chứng tỏ bị cáo không thực sự ăn năn hối cải, về phía đại diện hợp pháp cho bị hại không xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định theo quy định của pháp luật. Về bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của cháu H, đại diện hợp pháp cho bị hại giữ nguyên yêu cầu buộc bị cáo HH bồi thường số tiền là 50.000.000 đồng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Nguyễn Thu H trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, đầy đủ, chính xác về hành vi phạm tội của bị cáo cũng như hậu quả của hành vi này để quyết định một mức hình phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Về mức bồi thường thiệt hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và xin gửi lời xin lỗi đến cháu Nguyễn Thu H và đại diện của cháu. Bị cáo xin tự nguyện bồi thường thiệt hại cho cháu H số tiền 20.000.000 đồng. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Lời khai của Phạm Văn HH và lời khai của cháu Nguyễn Thu H có một số nội dung chưa hoàn toàn trùng khớp (lý do quen biết, diễn biến cụ thể của hành vi giao cấu) nhưng đều có nội dung thống nhất về việc HH đã có 01 (một lần) thực hiện hành vi giao cấu với cháu H, được cháu H đồng ý tại nhà nghỉ ĐN vào rạng sáng ngày 17 tháng 3 năm 2021. Tại cơ quan điều tra, cháu H mô tả đặc điểm riêng bộ phận sinh dục của HH và dấu vết trên thân thể HH phù hợp với kết quả xem xét đặc điểm trên thân thể HH do cơ quan điều tra tiến hành. Vì vậy, có đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo HH như đã nêu trên. Ngoài ra, hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án, như: Lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản kiểm tra điện thoại, biên bản kiểm tra khám xét thân thể của bị cáo, kết luận giám định pháp y về tình dục, kết luận giám định đầu thu camera lắp đặt tại nhà nghỉ ĐN, kết luận giám định điện thoại thu giữ trong vụ án, giấy khai sinh của cháu H và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do quen biết nhau từ trước qua mạng xã hội Facebook, Phạm Văn HH và cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 09 tháng 02 năm 2008, đã có 04 lần hẹn gặp nhau. Trong lần gặp thứ 04 tại phòng 207, nhà nghỉ ĐN, có địa chỉ tại thôn BS, xã TT, huyện V, tỉnh Thái Bình, vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 17 tháng 3 năm 2021, HH đã có 01 (một) lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu H, được cháu H đồng ý. Thời điểm này cháu H được 13 năm 01 tháng 07 ngày tuổi. Hành vi trên của Phạm Văn HH đã phạm vào tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

[3] Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì:

“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

…”.

[4] Đánh giá về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do suy thoái về đạo đức, lối sống, bị cáo đã lợi dụng sự non nớt, chưa đủ chín chắn để nhìn nhận được việc bản thân bị xâm hại của bị hại để cố ý thực hiện tội phạm.

[5] Đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, mặc dù bị cáo khai nhận hành vi phạm tội nhưng bị cáo khai bị cáo không cố ý, là lỗi của bị hại, chỉ đến khi được nói lời sau cùng bị cáo mới nhận thức ra hành vi của bị cáo là sai, làm vi phạm pháp luật và gửi lời xin lỗi đến bị hại, do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo, thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng hành vi của bị cáo thể hiện sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức, bất chấp hậu quả, coi thường pháp luật, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bị dư luận xã hội quan tâm, do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[7] Khoản 4 Điều 145 Bộ luật Hình sự, quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy, bị cáo lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vấn đề bồi thường thiệt hại: Xét yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại cháu Nguyễn Thu H về việc buộc bị cáo Phạm Văn HH bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị hại bị xâm phạm là có căn cứ. Tuy nhiên, về mức bồi thường 50.000.000 đồng là cao, chưa phù hợp quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự, theo đó, mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định (1.490.000 đồng x 10 = 14.900.000 đồng). Tại cơ quan điều tra, bị cáo đề nghị giải quyết theo pháp luật, tại phiên tòa, bị cáo chấp nhận bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền là 20.000.000 đồng. Xét thấy, đề nghị của bị cáo tại phiên tòa về mức bồi thường cho bị hại là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng, tài sản:

[9.1] Đối với 01 (một) quyển sổ theo dõi hàng ngày bìa màu xanh 62 trang là tài sản của ông Kim Duy Ph, chủ nhà nghỉ ĐN. Xét thấy, tại cơ quan điều tra, ông Ph không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9.2] Đối với 05 (năm) chiếc áo cơ quan điều tra quản lý của cháu Nguyễn Thu H gồm 01 (một) áo phông cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in họa tiết hình con vật và dòng chữ “BROUILLY”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in dòng chữ viết ngược “BALENCIAGA”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in dòng chữ “LOUIS VUITON”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in họa tiết hình bông hoa, phía dưới cổ in dòng chữ viết cách điệu không rõ nghĩa và 01 (một) áo lót nữ vải tổng hợp màu đen đã cũ. Xét thấy, tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp cho cháu H không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9.3] Đối với 01 đầu thu camera in logo “DAHUA” quản lý tại nhà nghỉ ĐN, không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại ông Kim Duy Ph, chủ nhà nghỉ, là có căn cứ, đúng chủ sở hữu, ông Ph đã nhận lại tài sản và không có ý kiến, đề nghị gì, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[10] Về các vấn đề khác:

[10.1] Quá trình điều tra, cháu Nguyễn Thu H khai tại lần gặp gỡ thứ 03, sau ngày 08 tháng 3 năm 2021 khoảng 02 đến 03 ngày, vào khoảng 02 giờ đến 03 giờ sáng, Phạm Văn HH đi xe mô tô chở cháu H vào một nhà nghỉ ở khu vực thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình rồi thực hiện hành vi giao cấu với cháu H một lần, được sự đồng ý của cháu H, tuy nhiên, cháu H không nhớ sự việc xảy ra tại nhà nghỉ nào trên địa bàn thành phố Thái Bình. Phạm Văn HH thừa nhận trong khoảng thời gian trên, HH có đi xe mô tô đến gặp cháu H tại xã MK, huyện V, tỉnh Thái Bình để đưa cho cháu H 800.000 đồng vì trước đó cháu H nhắn tin hỏi vay tiền, sau đó HH về ngay mà không có việc chở cháu H đi vào nhà nghỉ trên thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để giao cấu với cháu H. Cháu H khẳng định không hỏi vay tiền, không nhận số tiền trên của HH. Cơ quan điều tra đã tiến hành triệt để các biện pháp điều tra như dẫn cháu H đi xác định địa điểm, tiến hành đối chất giữa các bên, trưng cầu giám định điện thoại thu giữ của cháu H và của HH, rà soát camera nhưng đều không có kết quả. Do chỉ có lời khai duy nhất của cháu H mà không có các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với HH về hành vi này.

[10.2] Trong vụ án này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình còn quản lý của Phạm Văn HH 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, gắn thẻ sim số thuê bao 0942.788.881, số seri 89840200011144662507 và quản lý 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ, màn hình điện thoại bị nứt vỡ, trên điện thoại không gắn sim do cháu Nguyễn Thu H giao nộp. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chiếc điện thoại thu giữ của HH, qua giám định, Viện khoa học Hình sự - Bộ Công an đã khôi phục, trích xuất được 544 tin nhắn Zalo giữa tài khoản Zalo có tên “Câm Đô Moi Lúc Moi Nơi” và “Idol Hà” trong khoảng thời gian từ ngày 25 tháng 3 năm 2021 đến ngày 29 tháng 3 năm 2021. Theo cháu H, những tin nhắn đó là nội dung trao đổi, trò chuyện giữa cháu H và HH. Qua xem xét nội dung tin nhắn thấy có chứa nội dung nhằm kích thích tình dục người dưới 16 tuổi. Xét thấy cần có thêm thời gian để điều tra xác minh, làm rõ có hay không có dấu hiệu của tội “Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự nên cơ quan điều tra quyết định tách tài liệu, vật chứng liên quan đến nội dung trên để tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau, là đúng pháp luật.

[11] Bị cáo Phạm Văn HH phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[12] Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn HH phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 145, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn HH 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 02 tháng 4 năm 2021). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Văn HH.

3. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, khoản 1 Điều 584, Điều 592 Bộ luật Dân sự, xử: Chấp nhận việc bị cáo Phạm Văn HH tự nguyện bồi thường cho bị hại cháu Nguyễn Thu H (có người đại diện là anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Nguyễn Thị Nga) thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, số tiền là 20.000.000 đồng (bằng chữ: Hai mươi triệu đồng). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng, tài sản: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử tịch thu tiêu hủy 01 (một) quyển sổ theo dõi hàng ngày bìa màu xanh gồm 62 trang, 01 (một) áo phông cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in họa tiết hình con vật và dòng chữ “BROUILLY”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in dòng chữ viết ngược “BALENCIAGA”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in dòng chữ “LOUIS VUITON”, 01 (một) áo phông ngắn tay cổ tròn màu trắng đã cũ phía trước in họa tiết hình bông hoa, phía dưới cổ in dòng chữ viết cách điệu không rõ nghĩa và 01 (một) áo lót nữ vải tổng hợp màu đen đã cũ. (Toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Thái Bình vào ngày 13 tháng 9 năm 2021).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn HH phải nộp 200.000 đồng (bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (bằng chữ: Một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Phạm Văn HH, người đại diện hợp pháp cho bị hại là anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Nguyễn Thị Nga, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị Hằng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30 tháng 9 năm 2021). Bị hại cháu Nguyễn Thu H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pHH thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 58/2021/HS-ST

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về