Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 47/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 47/2022/HS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, H xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/TLST-HS ngày 09/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T -Sinh ngày 03 tháng 11 năm 1998, tại H; ĐKNKTT và trú tại: thôn T1, xã T2, huyện Thanh Oai, thành phố H; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn P và bà Nguyễn Thị H; là con thứ hai trong gia đình có 02 anh em; Tiền án, Tiền sự: không (theo danh chỉ bản số 160 ngày 12/5/2022); Nhân thân: ngày 14/7/2022, Công an huyện T, thành phố H ra Quyết định khởi tố bị can đối với Hoàng Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134- Bộ luật hình sự; Bị cáo tạm giữ ngày 28/4/2022; tạm giam ngày 07/5/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Cháu Trần Thị Tố Q, sinh ngày 12/6/2007 (có đơn xét xử vắng mặt) Trú tại: thôn P, xã T3, huyện T, TP H.

-Người đại diện của bị hại:

1/ Bà Lê Thị H1, sinh năm 1986 (mẹ đẻ cháu Q).

2/ Ông Trần Văn X, sinh năm 1981 (bố đẻ cháu Q).

Cùng trú tại: thôn P, xã T3, huyện T, TP H (Bà Hiền, ông X có đơn xét xử vắng mặt) - Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Đỗ Thị Th, trợ giúp viên pháp lý- Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 1 năm 2022, Hoàng Văn T có quen biết cháu Trần Thị Tố Q qua sinh nhật bạn. Sau nhiều lần nói chuyện giữa T và cháu Q nảy sinh tình cảm yêu đương nam nữ, T biết cháu Q chưa thành niên. Ngày 26/3/2022, T và cháu Q cùng nhau đi chơi, ăn tối đến khoảng 00 giờ ngày 27/3/2022, T đưa cháu Q đến khách sạn Th thuộc địa phận thôn Khê Hồi, xã Hà Hồi, huyện T, thành phố H để thuê phòng ngủ thì được lễ tân đồng ý cho thuê phòng 304. Khi vào trong phòng, T và cháu Q ngồi trên giường tâm sự, ôm hôn nhau rồi T tự cởi quần áo của T ra tiếp tục nằm ôm hôn và dùng tay sờ ngực cháu Q. T cởi cúc cài áo lót của cháu Q thì cháu Q tự cởi bỏ áo lót ra ngoài nhưng vẫn mặc áo ngoài. T tiếp tục kéo chân váy của cháu Q xuống một đoạn 05cm thì cháu Q bảo T tắt điện để cháu Q tự cởi. Do cháu Q đồng ý cho T quan hệ tình dục nên bảo T đeo bao cao su thì T lấy bao cao su nhãn hiệu “VIP” có sẵn ở trong phòng tự đeo vào dương vật đang cương cứng. Cháu Q nằm ở phía dưới còn T ở phía trên quỳ giữa hai chân cháu Q và dùng tay đưa dương vật đã cương cứng của mình vào âm đạo của cháu Q. T thực hiện hành vi quan hệ khoảng 1 phút thì T rút dương vật ra khỏi âm đạo của cháu Q, tháo bỏ bao cao su rồi tiếp tục đưa dương vật vào âm đạo của cháu Q, đưa ra đưa vào khoảng 03 phút thì T xuất tinh vào bên trong âm đạo cháu Q. Sau đó, T rút dương vật ra và nhặt bao cao su vừa sử dụng vứt vào thùng rác trong nhà tắm rồi T và cháu Q cùng đi tắm và ngủ đến sáng thì xuống trả phòng ra về.

Ngày 26/4/2022, gia đình cháu Q phát hiện được tin nhắn giữa T và cháu Q, đồng thời hỏi cháu Q thì biết việc T và cháu Q đã quan hệ tình dục với nhau nên ngày 26/4/2022, anh Trần Văn X là bố đẻ của cháu Q đã đến công an xã Tân Minh, huyện T để trình báo.

Tại bản kết luận giám định số 2624/KL-KTHS ngày 05/5/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an kết luận:

1.Trên cơ thể cháu Trần Thị Tố Q không có dấu vết tổn thương.

2.Tình trạng bộ phận sinh dục của cháu Trần Thị Tố Q: màng trinh rách cũ tại vị trí 06 giờ, âm hộ, âm đạo, tầng sinh môn không tổn thương. Hiện tại cháu Trần Thị Tố Q không có thai.

3. Xét nghiệm viêm gan B: HbAg âm tính; HIV: âm tính.

Tại bản cáo trạng số 45/CT-VKSTT ngày 09/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Hoàng Văn T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo khoản 1 Điều 145 - Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

+Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận nội dung bản cáo trạng truy tố đúng hành vi bị cáo đã thực hiện, thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

+Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị hại: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tâm sinh lý của bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

+Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố Hoàng Văn T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, áp dụng khoản 1 Điều 145, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38- Bộ luật Hình sự năm 2015 và đề nghị: xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện của bị hại không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Hoàng Văn T và cháu Trần Thị Tố Q có quan hệ tình cảm yêu đương nam nữ từ trước nên khoảng 00 giờ ngày 27/3/2022, tại khách sạn Th thuộc thôn Khê Hồi, xã Hà Hồi, huyện T, Thành phố H, T đã có hành vi giao cấu với cháu Q. T thực hiện hành vi giao cấu với cháu Q trên cơ sở thuận tình của cháu Q, thời điểm này cháu Q 14 tuổi 09 tháng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” được quy định tại khoản 1 Điều 145- Bộ luật Hình sự năm 2015.Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi nên cần áp dụng pháp luật hình sự để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội ra đầu thú, bị hại và gia đình bị hại có đơn xin giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, quan hệ tình dục với bị hại trên cơ sở tình cảm yêu đương nhau từ trước. Tuy nhiên, bị cáo là người đã trưởng thành (24 tuổi), bị hại mặc dù có tình cảm yêu đương với bị cáo nhưng ở lứa tuổi hạn chế về nhận thức và kinh nghiệm sống nên việc quyết định tình dục không được đúng đắn, dễ cảm tình, bị rủ rê. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho sự phát triển bình thường cả thể chất và sinh lý của bị hại hiện tại cũng như sau này nên cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện của bị hại không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì về dân sự. Như vậy, Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm dân sự trong vụ án.

[6] Đối với khách sạn Th thuộc Công ty TNHH thương mại du lịch và dịch vụ Đức Anh không thực hiện đầy đủ quy trình kiểm tra, lưu trữ thông tin của khách đến lưu trú theo quy định đã vi phạm điểm m khoản 2 Điều 12 -Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ. Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty TNHH thương mại du lịch và dịch vụ Đức Anh số tiền là 7.000.000 đồng là có căn cứ.

[7]Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. [8]Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 - Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án [9] Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại, người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333- Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ: khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1.Về tội danh: Tuyên bố Hoàng Văn T phạm tội "Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi".

2.Về hình phạt: Xử phạt Hoàng Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/4/2022.

3.Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người đại diện của bị hại không có yêu cầu, đề nghị gì về bồi thường dân sự trong vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4.Về án phí: Căn cứ Điều 136 - Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333- Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Về việc thi hành án: T hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 47/2022/HS-ST

Số hiệu:47/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Tín - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về