TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 31/10/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi Trong ngày 31 tháng 10 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2022, đối với:
1. Bị cáo: Nguyễn Thành T, giới tính: Nam, sinh ngày 17/07/1997, nơi sinh: huyện B, tỉnh An Giang, nơi cư trú: ấp M, xã N, huyện B, tỉnh An Giang, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Phật giáo, nghề nghiệp: làm thuê, trình độ học vấn: 6/12, cha tên Nguyễn Văn U, sinh năm 1973 và mẹ tên Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1973, vợ tên Nguyễn Thị Ngọc H1, sinh năm 1998 (đã ly hôn năm 2018). Anh, em ruột có 03 người, bị cáo là người con thứ hai.
Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo Nguyễn Thành T bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp tạm giam từ ngày 25/02/2022 tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Tịnh Biên và có mặt tại phiên toà.
2. Người bị hại: em Nguyễn Thị Thu Ng, sinh năm 14/01/2006. Nơi cư trú: ấp N, xã N, huyện B, tỉnh An Giang, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1958. Nơi cư trú: ấp N, xã N, huyện B, tỉnh An Giang, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị hại có ông Phan Văn H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp viên Nhà nước, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị Diễm H3, sinh năm 1994. Nơi cư trú: tổ 17, ấp M, xã N, huyện B, tỉnh An Giang, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 06/2021, Nguyễn Thành T quen biết và có tình cảm nam nữ với Nguyễn Thị Thu Ng, sinh ngày 14/01/2006. Trong khoảng thời gian từ ngày 06/7/2021 đến ngày 27/7/2021, T đã giao cấu với Ng 06 lần, cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/7/2021, sau khi T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 67Y1 - 61xx chở Ng đi chơi xong, T điều khiển xe chở Ng về nhà của T thuộc ấp M, xã N, huyện B. Đến nhà, T và Ng cùng vào phòng ngủ của T, thì T và Ng ôm giỡn với nhau, rồi T nảy sinh ý định giao cấu với Ng, nên T cởi áo của Ng ra và Ng tự cởi quần ra, T tự cởi quần ra giao cấu với Ng khoảng 20 phút nhưng chưa xuất tinh thì nghỉ, T điều khiển xe chở Ng về nhà.
- Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ ngày 11/7/2021, Ng điện thoại cho T điều khiển xe mô tô đến chở Ng về nhà của T chơi. Khi đến nhà, T và Ng vào phòng ngủ của T đóng cửa lại, thì T và Ng ôm nhau khoảng 10 - 15 phút, T và Ng cởi quần áo ra, rồi T giao cấu với Ng khoảng 20 phút nhưng chưa xuất tinh, Ng kêu dừng lại nên T không giao cấu nữa và điều khiển xe chở Ng về nhà.
- Lần thứ ba: Khoảng 12 giờ ngày 15/7/2021, Ng gọi điện thoại kêu T điều khiển xe mô tô đến chở Ng về nhà T chơi, đến nhà T và Ng vào phòng ngủ của T, rồi cả hai cởi quần áo ra giao cấu với nhau khoảng 30 phút, thì T thấy âm đạo của Ng ra máu dính vào dương vật của T, lúc này Ng nói mệt và đang có kinh nguyệt, nên T nghỉ giao cấu và điều khiển xe chở Ng về nhà.
- Lần thứ tư: Khoảng 17 giờ ngày 17/7/2021, T điều khiển xe mô tô chở Ng về nhà T chơi, khi đến nhà T và Ng ngồi tại phòng khách nói chuyện với chị Nguyễn Thị Diễm H3 và anh T1 (chồng chị H3) khoảng 15 phút, T và Ng đi vào phòng đóng cửa lại, thì T và Ng cởi quần áo ra, rồi T giao cấu với Ng khoảng 20 – 30 phút nhưng chưa xuất tinh, do Ng nói mệt kêu T nghỉ giao cấu, Ng ngủ đến khoảng 01 giờ ngày 18/7/2021 T điều khiển xe chở Ng về nhà.
- Lần thứ năm và lần thứ sáu: Vào khoảng 12 - 13 giờ ngày 24/07/2021, Ng điện thoại kêu T chở Ng về nhà T chơi. Khi đến nhà, T và Ng vào phòng của T, thì T cởi quần của Ng ra và T tự cởi quần áo ra, rồi T giao cấu với Ng khoảng 30 phút thì xuất tinh vào âm đạo của Ng. Sau đó, T và Ng nằm nghỉ ngơi khoảng 10 phút, T tiếp tục giao cấu với Ng khoảng 10 - 20 phút nhưng chưa xuất tinh, do cả hai mệt nên không giao cấu nữa và T điều khiển xe chở Ng về nhà.
Ngày 18/08/2021, Ng phát hiện mình có thai nên nói lại sự việc T giao cấu với Ng cho bà Nguyễn Thị H2 (bà ngoại của Ng) biết, thì bà H2 đến Công an xã N để trình báo. Sau đó, Cơ quan công an mời T làm việc, thì T thừa nhận hành vi giao cấu với Ng như nội dung vụ án nêu trên.
Đến ngày 19/04/2022, Ng sinh được 01 bé gái đặt tên Nguyễn Thị Như H4. Tại Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 353/21/TDTE ngày 19 tháng 08 năm 2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang, kết luận:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Toàn thân không thương tích tồn tại.
+ Bộ phận sinh dục ngoài chưa ghi nhận bất thường.
+ Màng trinh: dãn rộng, rách cũ vị trí 01 giờ, 02 giờ, 09 giờ.
+ Kết quả siêu âm: 01 (một) túi thai trong lòng tử cung khoảng 6 tuần.
- Kết luận:
+ Màng trinh không xếp tỷ lệ tổn thương cơ thể.
+ Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 00% (không phần trăm).
Tại Bản kết luận giám định số: 4877/KL-KTHS ngày 22/09/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Nguyễn Thị Thu Ng và bé Nguyễn Thị Như H4 có quan hệ huyết thống mẹ-con.
- Nguyễn Thành T và bé Nguyễn Thị Như H4 có quan hệ huyết thống cha con.
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên thu giữ:
Một điện thoại di động hiệu OPPO A93, màu xanh trắng (đã qua sử dụng), được niêm phong;
Một điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh (đã qua sử dụng), được niêm phong;
Một cái áo thun cổ tròn ngắn tay màu xanh, phía trước có in dòng chữ “Shool of the ozarks”;
Một cái quần jean ngắn, màu xanh;
Một cái áo thun dài tay, màu xanh phía sau có in dòng chữ “Xăng – dầu – ga PHƯỢNG NGHI”;
Một cái quần jean ngắn, màu đen;
Một cái áo thun cổ tròn, ngắn tay, màu trắng phía trước có chữ “Place for everything”;
Một cái quần jean ngắn, màu xanh, phía sau có chữ “MANGO JEANS”; Một cái áo sơ mi ngắn tay, màu trắng, cổ áo có viền đen;
Một cái quần jean ngắn, màu xanh.
- Ngày 22/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thành T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Cáo trạng số: 46/CT-VKSTB.HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Tại phiên tòa hôm nay:
1. Lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng phù hợp với nội dung vụ án, ngoài ra còn khai nhận:
- Bà Nguyễn Thị H2 đã nhận số tiền 10.000.000 đồng từ gia đình của T, nên không yêu cầu bồi thường gì thêm, xin giảm nhẹ hình phạt cho T.
- Bà Nguyễn Thị Diễm H3 đã bồi thường 10.000.000đồng cho gia đình Ng và không yêu cầu T trả lại.
2. Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Thành T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Trong phần nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và hứa sau khi chấp hành xong hình phạt sẽ tiến đến hôn nhân với em Ng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
3. Trợ giúp viên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại trình bày lời bảo vệ như sau:
Thống nhất theo các điểm, khoản, điều luật truy tố của đại diện Viện kiểm sát huyện Tịnh Biên đối với bị cáo Nguyễn Thành T. Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, theo Kết luận điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội giao cấu nhiều lần với em Nguyễn Thị Thu Ng là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, hậu quả làm em Ng có thai và sinh con (theo kết luận giám định con của em Ng và T có quan hệ huyết thống cha – con). Bị cáo phạm tội đối với trẻ em vốn được pháp luật bảo vệ, vì vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của gia đình bị cáo, người bị hại (hai bên thống nhất cho bị cáo, người bị hại tiến đến hôn nhân khi đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình). Vì vậy, về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án dưới mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và các vấn đề khác thì thống nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Ngoài ra, không trình bày gì thêm.
4. Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”;
Về hình phạt chính: Áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 145; b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù;
Về hình phạt bổ sung: Không;
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề xuất:
Tịch thu tiêu huỷ: Một cái áo thun cổ tròn ngắn tay màu xanh, phía trước có in dòng chữ “Shool of the ozarks”; Một cái quần jean ngắn, màu xanh; Một cái áo thun dài tay, màu xanh phía sau có in dòng chữ “Xăng – dầu – ga PHƯỢNG NGHI”; Một cái quần jean ngắn, màu đen; Một cái áo thun cổ tròn, ngắn tay, màu trắng phía trước có chữ “Place for everything”; Một cái quần jean ngắn, màu xanh, phía sau có chữ “MANGO JEANS”; Một cái áo sơ mi ngắn tay, màu trắng, cổ áo có viền đen; Một cái quần jean ngắn, màu xanh.
Tịch thu sung quỹ nhà nước: Một điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh (đã qua sử dụng), được niêm phong của bị can Nguyễn Thành T.
Trả lại: Một điện thoại di động hiệu OPPO A93, màu xanh trắng (đã qua sử dụng), được niêm phong cho em Nguyễn Thị Thu Ng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận số tiền 10.000.000 đồng từ gia đình bị cáo và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra để giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị cáo Nguyễn Thành T bị Cơ quan điều tra - Công an huyện Tịnh Biên khởi tố về hành vi “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên.
[2] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên; Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hợp pháp.
[3] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: người bị hại em Nguyễn Thị Thu Ng đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, tuy nhiên người tham gia tố tụng này đều đã có lời khai tại Cơ quan Điều tra, được thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử; căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
- Về nội dung:
[4] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thành T khai nhận T1 bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã nêu, bị cáo thừa nhận hành của mình là vi phạm pháp luật, nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo không oan; lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay được đối chiếu với tài liệu, sơ đồ, bản ảnh hiện trường, lời khai của của người bị hại, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa là phù hợp.
[5] Từ đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: từ tháng 06/2021, bị cáo Nguyễn Thành T quen biết và có tình cảm nam nữ với em Nguyễn Thị Thu Ng, sinh ngày 14/01/2006 và trong khoảng thời gian từ ngày 06/7/2021 đến ngày 27/7/2021, T đã 06 lần thực hiện hành vi giao cấu với em Nguyễn Thị Thu Ng, khi em Ng đã đủ 13 tuổi nhưng dưới 16 tuổi, hậu quả làm em Ng có thai, đến ngày 19/4/2022, Ng sinh được 01 bé gái đặt tên Nguyễn Thị Như H4 (theo bản kết luận giám định số: 4877/KL-KTHS ngày 22/9/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Nguyễn Thành T và bé Nguyễn Thị Như H4 có quan hệ huyết thống cha con);
Do đó, cáo trạng số 46/CT-VKSTB.HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên truy tố bị cáo với Nguyễn Thành T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
“Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”:
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
…..
d) Làm nạn nhân có thai;
3… 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” [6] Về tính chất, mức độ tội phạm: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành T là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương, kỷ cương pháp luật bị xâm hại, xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển về tinh thần và thể chất của người bị hại, vi phạm nếp sống lành mạnh, văn minh của xã hội, vì dục vọng thấp hèn và lợi dụng sự nhẹ dạ của bị hại là trẻ em, bị cáo Nguyễn Thành T bất chấp dư luận, cố ý thực hiện hành vi giao cấu nhiều lần với trẻ em Nguyễn Thị Thu Ng, hậu quả làm người bị hại có thai, sinh con.
Xét tính chất, mức độ, ý thức và hậu quả phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xử lý nghiêm đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội có thời hạn để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung cho những ai có tư tưởng như bị cáo.
Qua phiên toà này cũng nghiêm khắc phê phán những bậc làm cha, mẹ, ông, bà người đưa giao quản lý con cháu thiếu sự quan tâm chăm sóc đối với con cái, nhất là các cháu gái, đó là điều kiện dẫn đến sự đáng tiếc như vụ án này.
[7] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Nguyễn Thành T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả số tiền 10.000.000đ và tại phiên tòa hôm nay người đại diện cho người bị hại có xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[7] Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Áp đụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: xử lý vật chứng như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp cho người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.
[11] Xét lời bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị hại tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.
[12] Từ những nhận xét nêu trên cũng như qua tranh luận tại phiên tòa.
Xétthấy, trong quá trình điều tra, truy tố các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng quy định. Vì vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, d khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 04 (bốn) năm tù.
Thời gian chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 25/02/2022.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu và tiêu hủy:
01 (Một) cái áo thun cổ tròn ngắn tay màu xanh, phía trước có in dòng chữ “Shool of the ozarks”;
01 (Một) cái quần jean ngắn, màu xanh;
01 (Một) cái áo thun dài tay, màu xanh phía sau có in dòng chữ “Xăng – dầu – ga PHƯỢNG NGHI”;
01 (Một) cái quần jean ngắn, màu đen;
01 (Một) cái áo thun cổ tròn, ngắn tay, màu trắng phía trước có chữ “Place for everything”;
01 (Một) cái quần jean ngắn, màu xanh, phía sau có chữ “MANGO JEANS”;
01 (Một) cái áo sơ mi ngắn tay, màu trắng, cổ áo có viền đen;
01 (Một) cái quần jean ngắn, màu xanh.
Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh (đã qua sử dụng), được niêm phong của bị cáo Nguyễn Thành T.
Trả lại cho em Nguyễn Thị Thu Ng: 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO A93, màu xanh trắng (đã qua sử dụng), được niêm phong.
(Điện thoại được niêm phong trong 01 (một) bì thư có ghi vụ: 317/KLGT- PC09(KTSĐT) ngày 28 tháng 11 năm 2021 có chữ ký và chữ viết Nguyễn Văn H, Giáp Thanh T và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang.) Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 24/10/2022 giữa Cơ quan Điều tra Công an huyện Tịnh Biên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên.
Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 44/2022/HS-ST
Số hiệu: | 44/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về