Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 35/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử “kín” vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2023/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Huỳnh Trung Ng (Khánh) sinh năm 2002, tại An Giang; nơi cư trú: Khóm VL, thị trấn VB, huyện CT, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Quốc C sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị H sinh năm 1978; anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là người thứ hai trong gia đình; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo Huỳnh Trung Ng bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Thành, tỉnh An Giang cho đến nay. (có mặt)

- Người bị hại: Trần Thị Tú Q, sinh ngày 08/4/2008; (có mặt) Người đại diện hợp pháp cho bị hại Trần Thị Tú Q: Trần Văn G sinh năm 1982 và Nguyễn Thị Bích Th sinh năm 1985; (có mặt) Nơi cư trú: ấp VP, xã VA, huyện CT, An Giang.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Trần Thị Tú Q: Bà Trần Thị Cẩm S là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang; (có mặt) Địa chỉ: Số 8/18 Lý Thường Kiệt, phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Người có quyền lợi liên quan:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; (có mặt) Nơi cư trú: ấp VP, xã VA, huyện CT, An Giang.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị Sâu, sinh năm 1965; (vắng mặt)

2. Trần Thị Kim Nh, sinh ngày 06/3/2008; (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp cháu Trần Thị Kim Nh: Trần Văn T, sinh năm 1983. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 7 năm 2022, Huỳnh Trung Ng quen với Trần Thị Tú Q (sinh ngày: 08/4/2008) qua mạng xã hội và nảy sinh tình cảm yêu thương nhau. Khoảng tháng 10 năm 2022, N đã thực hiện hành vi giao cấu với Q 02 lần tại nhà của Q thuộc ấp VP, xã VA, huyện CT, An Giang, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 20 giờ, không xác định ngày, đầu tháng 10 năm 2022, N nhắn tin cho Q qua ứng dụng Messenger hẹn đến nhà gặp Q thì được Q đồng ý. Sau đó, N điều khiển xe mô tô biển số: 67C1 - 843xx đến nhà gặp Q. N và Q ngồi nói chuyện với nhau tại phòng khách khoảng 10 phút thì Q dẫn N vào phòng ngủ của Q, N thực hiện hành vi giao cấu với Q 01 lần, giao cấu xong thì N đi về nhà.

Lần thứ hai: Khoảng 13 giờ, không xác định ngày, cuối tháng 10 năm 2022, N nhắn tin cho Q qua ứng dụng Messenger hẹn đến nhà gặp Q thì được Q đồng ý. Sau đó, N điều khiển xe mô tô biển số: 67C1 - 843xx đến nhà gặp Q và bạn Q tên Trần Thị Kim Nh (Hằng), cả 03 ngồi nói chuyện với nhau. Khoảng 10 phút sau, Nhanh đi về, Q dẫn N vào phòng ngủ của Q, N thực hiện hành vi giao cấu với Q 01 lần, giao cấu xong thì N đi về nhà.

Ngày 28/11/2022, Nguyễn Thị Sâu là bà Nội của Q thấy N đang ở trong nhà cùng với N nên cho Trần Văn G là cha ruột của Q biết sự việc nên Giang đến Công an xã Vĩnh An trình báo. Cùng ngày, N đến Công an xã Vĩnh An đầu thú, khai nhận hành vi giao cấu với Q.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô biển số: 67C1 - 843xx, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, số khung: RLCUE3740NY130714, số máy: E32VE515526 (đã trao trả cho Nguyễn Thị H).

- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng, IMEI 1: 869466032844410, IMEI 2: 869466032844402, trong điện thoại có lắp sim số: 09763641xx và 05226780xx (thu giữ của Nguyễn Thị H).

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 669/22/TDTE ngày 08/12/2022 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế An Giang: Trần Thị Tú Q sinh ngày 08/4/2008; địa chỉ: ấp Vĩnh Phú, xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, kết luận: Màng trinh rách cũ vị trí 03 giờ, 09 giờ. Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần: Màng trinh không xếp tỷ lệ tổn thương cơ thể.

* Căn cứ Kết luận giám định số 442/KL-KTHS(KTSĐT-GT) ngày 13/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận:

Tìm thấy dữ liệu tin nhắn tại ứng dụng Messenger nghi vấn có liên quan, lưu trữ trong: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO có số IMEI 1: 869466032844410 và số IMEI 2: 869466032844402 (ký hiệu A) do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Thành gửi giám định, chi tiết thể hiện trong Phụ lục kèm theo; kèm theo kết luận giám định: 01 Phụ lục gồm 23 trang giấy A4.

Tại Bản cáo trạng số: 20/CT-VKS ngày 20/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Huỳnh Trung Ng về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung 2017).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Trung Ng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo khai nhận: Trong thời gian từ đầu tháng 10/2022 và cuối tháng 10/2022 thì Huỳnh Trung Ng và bị hại Trần Thị Tú Q có thực hiện quan hệ tình dục trên cơ sở tự nguyện 02 lần tại địa điểm và thời gian như nội dung vụ án.

Bị hại Trần Thị Tú Q và người đại diện hợp pháp bị hại là Trần Văn G, Nguyễn Thị Bích Th trình bày như nội dung vụ án đã nêu, yêu cầu xử lý hình sự bị cáo Huỳnh Trung Ng theo quy định pháp luật, yêu cầu bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm số tiền là 200.000.000đ. Tại phiên tòa, bị hại và đại diện bị hại chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật, không yêu cầu bồi thường 200.000.000đ nữa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với bị cáo Huỳnh Trung Ng và giữ N truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Trung Ng mức án từ 03 năm đến 04 năm tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại và đại diện bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại nên đề nghị xem xét theo quy định; về vật chứng: đề nghị trả lại cho bà Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng do không biết bị cáo mượn để dùng vào việc phạm tội.

Trợ giúp viên pháp lý trình bày lý đoán bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị hại Trần Thị Tú Q thì thống nhất hoàn toàn quan điểm của Viện kiểm sát; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay thì bị hại và đại diện bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm hại theo quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bị cáo không tranh luận về tội danh, khoản, điều luật, tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo thể hiện sự ăn năn hối cãi, nhận thức được lỗi lầm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên tòa, người làm chứng mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại gì đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội, thấy: Theo lời khai của bị cáo Huỳnh Trung Ng thì giữa 02 người nảy sinh tình cảm yêu thương với nhau và khi thực hiện hành vi giao cấu có sự tự nguyện của bị hại, nhưng bị hại là trẻ em, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Lẽ ra, bị cáo phải nhận thức được hậu quả của việc giao cấu với bị hại sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em được pháp luật bảo vệ, lợi dụng bị hại thiếu hiểu biết, chưa nhận thức được hậu quả của việc quan hệ tình dục sớm, bị cáo dùng lời lẽ yêu thương để thực hiện hành vi giao cấu với bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu và dục vọng của mình. Do đó, hành vi của Huỳnh Trung Ng đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung 2017).

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm thân thể, xâm phạm tình dục trẻ em, đó là một trong các quyền được pháp luật bảo vệ; bị cáo là người trưởng thành và đầy đủ nhận thức, năng lực chịu trách nhiệm trước pháp luật mọi hành vi sai trái, phạm tội với lỗi cố ý bất chấp mọi hậu quả. Với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội, xét cần thiết xử phạt nghiêm nhằm cải tạo bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung trước tình trạng xâm hại tình dục trẻ em xảy ra nhiều thời gian qua.

[3] Xét, sau khi phạm tội thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải, bản thân bị cáo là thành phần lao động nghèo, học vấn thấp và tuổi đời còn rất trẻ nên thiếu hiểu biết về pháp luật, sau khi sự việc xảy ra đã có hành vi đầu thú. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ nên được chấp nhận khi xem xét quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[4] Các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo có hành vi xâm hại tình dục đối với bị hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cho bị hại, tại phiên tòa phía bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bị hại theo pháp luật quy định và đã được bị cáo tự nguyện chấp nhận. Theo quy định tại khoản 2 Điều 592 Bộ luật dân sự quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu là buộc bị cáo Huỳnh Trung Ng có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền tương đương 10 tháng lương cơ bản hiện nay là 15.000.000đ là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng của bà Nguyễn Thị H cho bị cáo Huỳnh Trung Ng mượn để sử dụng khi điện thoại của bị cáo hư nhưng không biết bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu.

[5] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Huỳnh Trung Ng và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận. Ngoài ra, theo quan điểm của Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Trần Thị Tú Q tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với những nhận định trên và phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[6] Bị cáo Huỳnh Trung Ng phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Trung Ng phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”;

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Huỳnh Trung Ng 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 28/11/2022.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng, IMEI 1: 869466032844410, IMEI 2: 869466032844402, trong điện thoại có lắp sim số: 09763641xx và 05226780xx, được để trong phong bì màu trắng được dán kín niêm phong, trên phong bì có chữ ký của Nguyễn Thanh Mộng, Giáp Thanh Tiển và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang.

(Vật chứng này hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, An Giang đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 19/QĐ-VKS, ngày 20/4/2023).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 585, Điều 586 và Điều 592 Bộ luật dân sự 2015: Buộc Huỳnh Trung Ng bồi thường về tổn thất tinh thần cho bị hại Trần Thị Tú Q số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 và khoản 6 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Trung Ng phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 750.000đ án phí dân sự sơ thẩm; tổng cộng, số tiền phải nộp là 950.000đ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại và đại diện hợp pháp bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 35/2023/HS-ST

Số hiệu:35/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về