Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 269/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 269/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 252/2021/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 231/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 11 năm 2021, Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 221/TB-TA ngày 23/11/2021, đối với bị cáo:

Trần Tâm T (Tên gọi khác: không), sinh ngày 02 tháng 04 năm 1999 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT: 270 Bạch Đ, phường G, thành phố H, tỉnh T; Nơi cư trú: 232 Chi L, phường G, thành phố H, tỉnh T; nghề nghiệp: Thợ nhôm kính; trình độ học vấn: 11/12; giới Th: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Trần Thị Minh T, không rõ họ tên cha; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: không; tiền sự: 01.

- Ngày 12/3/2020, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 3.000.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.

Quá trình nhân thân:

Từ nhỏ, lớn lên sinh sống cùng gia đình. Học đến lớp 11/12 thì nghỉ học đi làm thuê, sau đó làm thợ nhôm kính.

- Ngày 10/4/2016, bị Công an phường Phường Đ, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 07/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 34/2016/HSST).

- Ngày 07/12/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 260/2016/HSST).

- Ngày 26/12/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh T xử phạt 08 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 275/2016/HSST).

- Ngày 23/7/2019, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 19/10/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H ra quyết định đình chỉ điều tra do người bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/7/2021 cho đến nay. Có mặt.

* Bị hại: Cháu Lê Thị Thúy H, sinh ngày: 12/11/2007; địa chỉ: 20 Nguyễn Cư T, phường Thuận H, thành phố H, tỉnh T; Có đơn xin xử vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Lê Thị Thúy H: Ông Lê Độ T1 và bà Mai Thị Thúy L; cùng trú tại địa chỉ: 20 Nguyễn Cư T, phường Thuận H, thành phố H, tỉnh T; Có đơn xin xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Lê Thị Thúy H: Bà Lê Thị B -Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T; Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Minh T; sinh năm: 1975; địa chỉ: số 232 Chi L, phường G, thành phố H, tỉnh T; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 03/2021, Trần Tâm T và cháu Lê Thị Thúy H (sinh ngày 12/11/2007) quen biết nhau trên mạng xã hội Facebook rồi nảy sinh tình cảm yêu đương nam nữ và gặp gỡ, đi chơi với nhau nhiều lần. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/3/2021, T và cháu H có hẹn gặp nhau, T điều khiển xe mô tô hiệu Viet Thai, biển kiểm soát 75AG-004.07 đi đến trường Trung học cơ sở Trần Cao V đón cháu H. Trên đường đi, cháu H hỏi T chở đi đâu thì T nói vào nhà nghỉ để nói chuyện thì cháu H đồng ý và không có phản ứng gì. T chở cháu H đến nhà nghỉ Thanh T tại địa chỉ xóm 2, Lại T, xã P, huyện P (nay là phường P, thành phố H), tỉnh T, rồi T vào gặp anh Võ Văn C là quản lý nhà nghỉ để thuê phòng, anh C đưa chìa khóa phòng 203 tại tầng 2. Sau khi vào phòng thì T và cháu H vừa trò chuyện vừa ôm hôn nhau rồi T đề nghị quan hệ tình dục nhưng cháu H không đồng ý. Sau đó T đi sang phòng 204 bên cạnh lấy bao cao su có sẵn trong phòng rồi quay lại phòng 203 và thuyết phục cháu H sử dụng bao cao su thì sẽ không có thai nên cháu H đồng ý. T liền tự cởi áo quần của mình rồi mang bao cao su vào dương vật của T và giúp cháu H cởi áo quần. Sau đó, T đưa dương vật của T vào âm hộ của cháu H để thực hiện hành vi giao cấu trên giường, được một lúc thì T xuất tinh, T rút dương vật ra khỏi người cháu H và tháo bỏ bao cao su rồi cả hai tiếp tục ôm nhau. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, T chở cháu H về trường Trung học cơ sở Trần Cao V để cháu Hòa đợi bố mẹ đến đón, còn T đi về nhà.

Ngày 21/3/2021, khi cháu H đang sử dụng điện thoại để nhắn tin qua mạng xã hội Facebook Mesenger với T về việc mua thuốc tránh thai thì bị mẹ ruột của cháu H phát hiện nên cháu H đã kể lại nội dung sự việc. Sau đó ông Lê Độ T1 (bố ruột của cháu H) đã có đơn trình báo.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, loại A3S, kiểu máy CPH1853, số Imei 1: 866056042477252, số Imei 2: 866056042477252 đã qua sử dụng.

- 29 Tờ tài liệu cỡ giấy A4 có chữ ký tên Mai Thúy L.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 75AG-004.07, nhãn hiệu hiệu: VIET THAI, VT SIRUS, sơn màu: Đen cam, số máy: FMDVT3203123; số khung: BRN4JH003123.

- 01 đĩa CD chứa video clip quay màn hình điện thoại OPPO có nội dung tin nhắn trên ứng dụng Facebook Messenger giữa T và H.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 110-21/TD ngày 30/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận:

1. Bộ phận sinh dục ngoài của cháu H không phát hiện tổn thương.

Màng trinh hình ống, mép mỏng, chưa biệt hóa hoàn toàn. Màn trinh không phát hiện rách cũ hay mới, lỗ trinh rộng.

Tầng sinh môn và hậu môn không phát hiện dấu vết tổn thương.

2. Không thấy hình ảnh tinh trùng trên tiêu bản.

* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Cơ quan điều tra Công an huyện P đã trả lại 01 xe máy biển kiểm soát 75AG-004.07 cho ông Võ Văn L là chủ sở hữu. Đối với các vật chứng đang tạm giữ tiếp tục tạm giữ để phục vụ truy tố, xét xử.

Đại diện gia đình Trần Tâm T đã bồi thường cho gia đình cháu Lê Thị Thúy H số tiền 2.000.000 đồng. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trần Tâm T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, công nhận việc khởi tố của Cơ quan điều tra và truy tố của Viện kiểm sát là đúng với hành vi của bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 348/CT-VKS ngày 12 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Trần Tâm T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Tâm T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

- Về hình phạt: áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, loại A3S, kiểu máy CPH1853, số Imei 1: 866056042477252, số Imei 2: 866056042477252 đã qua sử dụng cho bà Trần Thị Minh T là chủ sở hữu.

- Về trách nhiệm dân sự: Phía bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin xử vắng mặt và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận điều tra và bản cáo trạng nên các hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 19/3/2021, tại nhà nghỉ Thanh T, địa chỉ xóm 2, Lại T, xã P, huyện P (nay là phường P, thành phố H), tỉnh T, Trần Tâm T đã có hành vi giao cấu với cháu Lê Thị Thúy H là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật nhưng không kiềm chế được dục vọng của bản thân nên dẫn đến việc phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự con người được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý bình thường của trẻ em nên cần phải xử lý bị cáo bằng một hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã từng bị xử lý hình sự và bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần, hiện có một tiền sự nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4]. Về xử lý vật chứng: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, loại A3S, kiểu máy CPH1853, số Imei 1: 866056042477252, số Imei 2: 866056042477252 đã qua sử dụng là của bà Trần Thị Minh T, cần trả lại cho bà T. Các vật chứng còn lại lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Trần Tâm T đã bồi thường cho cháu Lê Thị Thúy H số tiền 2.000.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu gì khác về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Tuyên bố bị cáo Trần Tâm T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

- Xử phạt bị cáo Trần Tâm T 01 năm 03 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày 02/7/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Trả lại 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen, loại A3S, kiểu máy CPH1853, số Imei 1: 866056042477252, số Imei 2: 866056042477252 đã qua sử dụng cho bà Trần Thị Minh T. Các vật chứng còn lại lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

Vật chứng trên được xác định theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/10/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Tâm T phải chịu 200.000 đồng.

Án sơ thẩm xét xử công khai báo cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

438
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 269/2021/HS-ST

Số hiệu:269/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về