Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 193/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 193/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh N xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 196/2023/HSST ngày 15/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2023/HSST ngày 15/9/2023, đối với bị cáo:

Lý Văn L, sinh năm 2002 Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

HKTT: Thôn Bản Khẻ, xã Thượng Nông, huyện Na Hang, tỉnh T.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lý Văn S, sinh năm 1969. Mẹ đẻ: Ngô Thị P, sinh năm 1969. Gia đình có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ tám. Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Không - Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 162/QĐ-XPHC ngày 27/6/2022 Uỷ ban nhân dân thị trấn Na Hang, tỉnh T xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Nhân thân:

+ Tại Bản án số 32/2019/HSST ngày 26/11/2019 Toà án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong phần án phí ngày 14/01/2020.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC ngày 07/01/2021 Công an huyện Na Hang, tỉnh T xử phạt 200.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Chấp hành xong ngày 02/02/2021.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H, Trợ giúp viên pháp lý -Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh N; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ngưi bị hại: Cháu Nguyễn Thị B, sinh ngày 07/02/2010; vắng mặt.

Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Cùng HKTT: Thôn Quê, xã Bảo Đài, huyện L, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 06/6/2023, Công an phường Phương Liễu, thị xã Q, tỉnh N nhận được đơn trình báo của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983, HKTT:

thôn Quê, xã Bảo Đài, huyện L, tỉnh B trình báo về việc: Ngày 5/6/2023, Lý Văn L, sinh năm 2002, HKTT: bản Khẻ, xã Thượng Nông, huyện Na Hang, tỉnh T có hành vi quan hệ tình dục với con gái anh là cháu Nguyễn Thị B, sinh ngày 07/02/2010. Sau khi nhận được tin báo, Công an phường Phương Liễu đã chuyển đơn cùng tài liệu thu thập được đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q để giải quyết theo thẩm quyền.

Sau khi tiếp nhận đơn trình báo trên, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q đã triệu tập Lý Văn L đến làm việc. Tại đây, L đã đầu thú về hành vi quan hệ tình dục với cháu B đồng thời giao nộp 01 áo phông cộc tay màu đen có chữ ADIDAS trước ngực bên trái, 01 quần vải màu đen, 01 quần sịp đen (đều đã qua sử dụng).

Căn cứ vào lời khai của bị can và các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án xác định:

Ngày 12/5/2023, L đến khu vực thị trấn Đồi Ngô, huyện L, tỉnh B để tìm việc và làm bưng bê tại một nhà hàng. Đến 23 giờ ngày 03/6/2023, L đi ra khu vực công viên của thị trấn Đồi Ngô, huyện L chơi thì gặp cháu B đang đứng một mình nên lại gần làm quen. Qua nói chuyện, L biết cháu B đang bỏ nhà đi và muốn tìm việc làm nên rủ cháu B lên Hà Nội tìm việc, B đồng ý. Sau đó, L và B lúc thì đi bộ, lúc thì đi nhờ đến khoảng 21 giờ ngày 04/6/2023 thì vào một quán Internet ở khu vực chân cầu Đại Phúc, thành phố N, tỉnh N chơi. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, cả hai đi bộ ra bãi đất trống thuộc Trung tâm thương mại Golden Park ở khu Phương Cầu, xã Phương Liễu, thị xã Q, tỉnh N để nằm nghỉ. Tại đây, L và B nói chuyện với nhau một lúc rồi cả hai tự nguyện quan hệ tình dục với nhau. Sau khi quan hệ tình dục xong, L và B nằm ngủ đến sáng thì dậy đi tiếp. Đến khoảng 15 giờ ngày 05/6/2023, gia đình cháu B tìm thấy cả hai tại một cửa hàng ở thành phố Hà Nội.

Trên cơ sở Quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q, tại Kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số 4232/KL- KTHS ngày 09/6/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

“- Tình trạng bộ phận sinh dục của cháu Nguyễn Thị B: Màng trình rách mới bán phần vị trí 09 giờ.

- Trên cơ thể của cháu Nguyễn Thị B không có dấu vết tổn thương.

- Tại thời điểm giám định, xác định cháu Nguyễn Thị B không có thai”. Tại bản Kết luận giám định số 4238/KL-KTHS ngày 15/6/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:

“-Trên chiếc quần đùi và chiếc quần lót ghi thu của Nguyễn Thị B có bám dính tinh trùng người và là tinh trùng của Lý Văn L.

- Trong mẫu dịch âm đạo ghi thu của Nguyễn Thị B có bám dích tinh trùng người và là tinh trùng của Lý Văn L.

- Lưu kiểm gen (AND) của Lý Văn L và Nguyễn Thị B tại Viện khoa học hình sự Bộ Công an” Tại Kết quả siêu âm tử cung ngày 12/9/2023 của Phòng khám đa khoa Tâm Đức, tỉnh B do gia đình cháu B cung cấp xác định tại thời điểm siêu âm cháu Nguyễn Thị B không có thai.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q, Lý Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Bản cáo trạng số: 159/CT-VKS ngày 14/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, tỉnh N đã truy tố bị cáo Lý Văn L về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và thừa nhận cáo trạng của VKSND thị xã Q đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lý Văn L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Lý Văn L từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/6/2023. Đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 áo phông cộc tay màu đen có chữ ADIDAS trước ngực bên trái, 01 quần vải màu đen, 01 quần sịp đen và mẫu vật còn lại sau giám định.

Ngoài ra, đại diện VKS còn đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra, viện kiểm sát, kiểm sát viên đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật, không bị ai khiếu nại nên xác định hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại, người bào chữa cho bị cáo đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án đã thể hiện có đầy đủ lời khai, trình bày quan điểm về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên việc vắng mặt của họ tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại; phù hợp với tang vật thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Bị cáo và cháu Nguyễn Thị B, sinh ngày 07/02/2010 quen biết và đi cùng nhau để tìm việc làm từ ngày 03/6/2023. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 4/6/2023, tại bãi đất trống thuộc Trung tâm thương mại Golden Park ở khu Phương Cầu, phường Phương Liễu, thị xã Q, tỉnh N, bị cáo và cháu B tự nguyện quan hệ tình dục với nhau. Thời điểm L có hành vi quan hệ tình dục với cháu B thì cháu B mới 13 tuổi 3 tháng 27 ngày. Bởi vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự, như cáo trạng của VKSND thị xã Q đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của người chưa thành niên, xâm phạm vào danh dự nhân phẩm của con người được pháp luật bảo vệ. Do vậy cần có một hình phạt tương xứng với mức độ hành vi của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

Về tiền sự: Bị cáo có 01 tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 162/QĐ-XPHC ngày 27/6/2022 Uỷ ban nhân dân thị trấn Na Hang, tỉnh T xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Về nhân thân: Ngày 26/11/2019, bị cáo bị Toà án nhân dân huyện Na Hang, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự, đã chấp hành xong phần án phí ngày 14/01/2020. Ngoài ra tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC ngày 07/01/2021 Công an huyện Na Hang, tỉnh T xử phạt 200.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Chấp hành xong ngày 02/02/2021. Về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân xấu.

Bị cáo phạm tội do lỗi cố ý, khi đã biết rõ cháu B chưa đủ 16 tuổi nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu B. Sau khi phạm tội đã đến cơ quan điều tra đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do cháu B và người đại diện của cháu B là anh Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho cháu B nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Quá trình điều tra, cháu B đã giao nộp 01 quần lót màu trắng sữa, 01 quần đùi có hoa văn màu trắng, 01 áo hai dây màu hồng, 01 áo phông cộc tay màu hồng đậm (đều đã qua sử dụng). Ngày 20/6/2023, cơ quan CSĐT Công an thị xã Q đã trả lại tài sản trên cho cháu B. Cháu B nhận lại tài sản và không yêu cầu L bồi thường gì thêm.

- Đối với 01 áo phông cộc tay màu đen có chữ ADIDAS trước ngực bên trái, 01 quần vải màu đen, 01 quần sịp đen (đều đã qua sử dụng) của bị cáo, bị cáo không yêu cầu nhận lại và mẫu vật còn lại sau giám định không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lý Văn L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng khoản 1 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt: Lý Văn L 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/06/2023. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm thi hành án.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Tịch thu tiêu hủy 01 áo phông cộc tay màu đen có chữ ADIDAS trước ngực bên trái, 01 quần vải màu đen, 01 quần sịp đen đều đã qua sử dụng và mẫu vật còn lại sau giám định.

Về án phí: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, đại diện hợp pháp cho người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 193/2023/HS-ST

Số hiệu:193/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về