Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/TLST - HS ngày 22 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Điu K, sinh năm 1993, nơi sinh: Bình Phước; nơi cư trú: Thôn, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: XTiêng; tôn giáo: Không; con ông Điều N và bà Điều Thị L; bị cáo có vợ tên Điều Thị M và 02 người con đều sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; “có mặt”.

- Bị hại: Chị Điểu Thị P, sinh năm 2005

Nơi cư trú: Thôn, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước

- Người đại diện theo pháp luật cho chị Điểu Thị P: Chị Điều Thị M, sinh năm 2000;

Nơi cư trú: Thôn , xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hp pháp cho chị Điểu Thị P: Ông Đặng Thái H -Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Phước

- Người chứng kiến:

Chị Điều Thị M, sinh năm 2000;

Nơi cư trú: Thôn, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Điểu K và Điểu Thị M là vợ chồng cùng sinh sống tại thôn 10, xã Đăk Ơ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Đầu tháng 12 năm 2020 (không rõ ngày) Điểu Thị P, sinh năm 2005 (em gái của M) đến chơi và ở lại nhà M; khoảng 22 giờ cùng ngày K đi uống rượu về thấy P đang nằm ngủ một mình trên giường, còn M đi chăm sóc mẹ là bà Thị Gió bị bệnh tại thôn 3, xã Đắk Ơ. Lúc này, K nảy sinh ý định quan hệ tình dục với P. K liền đi đến ôm P, thấy P không phản ứng gì nên K cởi quần P ra và cởi quần của mình rồi thực hiện hành vi quan hệ tình dục với P vài phút thì xuất tinh vào âm hộ của P. Sau khi quan hệ tình dục xong K mặc quần cho P và mặc quần của mình vào rồi đi ngủ. Khoảng một tuần sau M đưa bà Gió đi điều trị bệnh tại Bệnh viện Chợ Rẫy tại thành phố Hồ Chí Minh, còn K và P ở trông giữ nhà tại thôn 3, xã Đăk Ơ; khoảng 22 giờ (không rõ ngày) K đi uống rượu về thấy P đang nằm ngủ trên giường thì nảy sinh ý định giao cấu với P, K đi đến ôm P, thấy P không phản ứng gì nên K cởi quần P ra và cởi quần của mình, sau đó thực hiện hành vi quan hệ tình dục với P vài phút rồi xuất tinh vào âm hộ của P. Sau khi quan hệ tình dục xong K mặc quần cho P và mặc quần của mình vào rồi đi ngủ.

Đến ngày 23/6/2021, Điều Thị M thấy bụng Điểu Thị P to nên đã đưa P đi siêu âm thì phát hiện P đã có thai 27 tuần tuổi. Đến ngày 28/6/2021, Điểu Thị P đã làm đơn tố cáo Điểu Thêu có quan hệ tình dục với P gửi đến Cơ quan CSĐT công an huyện Bù Gia Mập để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 04/09/2021 Điểu Thị P đã sinh con và đặt tên là Điểu A.

Theo bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 4252/C09B ngày 14/10/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Hồ Chí Minh kết luận tại thời điểm giám định (tháng 10/2021) Điểu Thị P có độ tuổi từ 15 năm 09 tháng đến 16 năm 03 tháng (tại thời điểm K thực hiện hành vi giao cấu với P thì P có độ tuổi từ 15 tuổi 05 tháng).

Theo bản kết luận giám định số 4255/C09B ngày 22/10/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh kết luận Điểu Thị P có quan hệ huyết thống mẹ - con với Điều An, Điều Th không có quan hệ huyết thống cha - con với Điểu An, Điểu K có quan hệ huyết thống cha - con với Điểu A.

Bản Cáo trạng số 12/CTr-VKS ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Điểu K về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Điểu K như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Điểu K từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Điểu K khai nhận đã có hành vi giao cấu với bị hại Điểu Thị P theo đúng nội dung Cáo trạng đã truy tố. Nay bị cáo đã nhận biết hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo một mức án thấp để bị cáo có cơ hội sửa sai.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Kiểm sát viên tham gia quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các cáo,người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Xét thấy các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, như: biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh hiện trường; Kết luận giám định pháp y về độ tuổi; lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay. Nên đã có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 22 giờ một ngày đầu tháng 12 năm 2020 (không rõ ngày) Điểu K đi uống rượu về thấy Điểu Thị P đang nằm ngủ một mình trên giường trong nhà của mình ở thôn 3, xã Đắk Ơ thì K đi đến ôm P, thấy P không phản ứng gì thì K cởi quần P ra và cởi quần của mình rồi thực hiện hành vi quan hệ tình dục với P. Khoảng một tuần sau K đi đến thôn 3, xã Đăk Ơ phụ giúp P trông giữ nhà; đến khoảng 22 giờ (không rõ ngày) K đi uống rượu về thấy P đang nằm ngủ trên giường, K đi đến ôm P, thấy P không phản ứng gì thì K cởi quần P ra và cởi quần của mình, sau đó thực hiện hành vi quan hệ tình dục với P.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” và “làm nạn nhân có thai” quy định tại điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đã truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự là hòa toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo nhận thức được việc giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật, nhưng vì sự ham muốn sinh lý của bản thân nên bị cáo đã thực hiện việc phạm tội, với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe, sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em được pháp luật hình sự bảo vệ mặc dù có sự tự nguyện đồng ý của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng nhằm răn đe, trừng trị, giáo dục đối với bị cáo và cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo cần xem xét: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là lao động chính trong gia đình đang nuôi 02 con nhỏ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách pháp luật nhân đạo của Nhà nước.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù là đúng quy định pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về vật chứng: không có

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Điểu Thị P và người đại diện theo pháp luật cho chị P là chị Điểu Thị M không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho chị P, nên không xem xét.

[6] Đối với hành vi Điểu Thuê đã được Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Bù Gia Mập khởi tố trong vụ án khác, do đó Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, điểm d khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Căn cứ Điều 260, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Điểu K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”

2. Xử phạt bị cáo Điểu K 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

3. Án phí sơ thẩm: áp dụng Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đồng.

4. Bị cáo, bị hại, người đại diện theo pháp luật của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về