Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 17/04/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 17 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 65/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn K, sinh năm 1986. Nơi cư trú: ấp T 2, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1954 và bà Lại Thị S, sinh năm 1949; Anh em ruột có 03 người, bị cáo là người thứ hai; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 26/9/2022 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Huỳnh Thị Yến N, sinh năm 2007. Nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1965. Nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).

2/ Bà Lại Thị Út H, sinh năm 1975. Nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).

Người làm chứng:

1/ Anh Huỳnh Văn N1, sinh năm 1996. Nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2/ Anh Huỳnh Văn B1, sinh năm 1998. Nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K: Ông Lê Minh Đ - Luật sư Công ty luật TNHH MTV Vạn Pháp, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Huỳnh Thị Yến N: Ông Lương Minh H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 08/6/2022, Huỳnh Văn T tổ chức uống rượu cùng Nguyễn Văn K (cháu của T) tại nhà T thuộc ấp T, xã V, huyện T được một lúc thì K nghỉ, lên võng ngủ. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, thấy T đã ngủ, còn Huỳnh Thị Yến N, sinh ngày 30/7/2007 (con nuôi của T) đang nằm trong phòng ngủ nên K nảy sinh ý định quan hệ tình dục với N. Thực hiện ý định, K đi vào giường ngủ nằm cạnh N và cả hai tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần.

Đến khoảng 14 giờ ngày 09/6/2022, thấy T nằm ngủ trước phòng khách, còn Huỳnh Văn N1, Huỳnh Văn B1 (con ruột của T) đã đi làm thuê, nên K vào phòng ngủ của N và cả hai tiếp tục giao cấu với nhau một lần. Cùng lúc này, Bổn điều khiển xe về nhà, sợ bị phát hiện N bỏ chạy vào nhà vệ sinh, còn K đi về nhà tại ấp T 2, xã T, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ làm thuê. Đến ngày 14/7/2022, T thấy N có biểu hiện bất thường, gặng hỏi thì N cho biết đã quan hệ tình dục với K 02 lần nên T đến Công an xã Vĩnh Trạch trình báo.

Ngày 19/9/2022, K bị khởi tố điều tra.

Vật chứng thu giữ: Quần, áo các loại của Nguyễn Văn K và Huỳnh Thị Yến N.

Tại Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 443/22/TDTE ngày 27/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, xác định Huỳnh Thị Yến N:

Dấu hiệu chính qua giám định: màng trinh rách cũ vị trí 03 giờ, 09 giờ; tầng sinh môn vết sây sát vị trí 06 giờ; các cơ quan khác không thương tích tồn tại; kết quả siêu âm chưa ghi nhận bất thường trên hình ảnh siêu âm.

Kết luận: màng trinh rách cũ vị trí 03 giờ, 09 giờ. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 0%.

Bản kết luận giám định về độ tuổi số 4140/C09B của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/8/2022, xác định: qua quá trình giám định lâm sàng và kết quả cận lâm sàng, xác định tại thời điểm giám định (tháng 7 năm 2022) Huỳnh Thị Yến N có độ tuổi từ 15 năm 09 tháng đến 16 năm 03 tháng.

Kết quả xét nghiệm kháng thể kháng HIV ngày 16/11/2022 của Trung tâm y tế huyện Thoại Sơn ghi nhận Nguyễn Văn K âm tính.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKSTS-HS ngày 22/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.

Bị hại Huỳnh Thị Yến N, đại diện hợp pháp của bị hại ông Huỳnh Văn T, bà Lại Thị Út H, người làm chứng các anh Huỳnh Văn N1, Huỳnh Văn B1 (cha, mẹ, anh nuôi của N) trình bày như nội dung vụ án đã nêu. T yêu cầu K bồi thường cho N chi phí điều trị 4.600.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 50.000.000 đồng, tổng cộng là 54.600.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn luận tội giữ nguyên tội danh Cáo trạng truy tố. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K mức án từ 03 năm đến 04 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa người đại diện hợp pháp của bị hại với bị cáo về việc bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 24.600.000 đồng (đã bồi thường thiệt hại được 5.000.000 đồng) số tiền còn lại phải bồi thường là 19.600.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư Lê Minh Đ trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K: thống nhất về tội danh, Điều khoản Cáo trạng truy tố; tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết như bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, học vấn thấp, hiểu biết pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn; sau khi vụ án xảy ra, bị cáo có thiện chí bồi thường được số tiền 5.000.000 đồng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải. Do bị cáo có Nều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Trợ giúp viên pháp lý ông Lương Minh H trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Huỳnh Thị Yến N: thống nhất về tội danh, Điều khoản Cáo trạng truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, danh dự và nhân phẩm em N, nên cần phải xử phạt nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung; tuy nhiên do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt cho bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, thống nhất bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 24.600.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi giao cấu với bị hại như Cáo trạng đã nêu. Bị cáo không tranh luận về tội danh, khung hình phạt do Viện kiểm sát luận tội. Nói lời sau cùng, bị cáo tỏ thái độ ăn năn, hối cải; đồng thời xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục điều tra, truy tố:

Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này còn có người bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sau khi vụ án xảy ra, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn K: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn K khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 08/6/2022, Huỳnh Văn T tổ chức uống rượu cùng K (cháu của T) tại nhà T. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, thấy T đã ngủ, còn Huỳnh Thị Yến N đang nằm trong phòng ngủ nên K nảy sinh ý định quan hệ tình dục với N. Thực hiện ý định, K đi vào giường ngủ nằm cạnh N và cả hai tự nguyện quan hệ tình dục.

Đến khoảng 14 giờ ngày 09/6/2022, thấy T nằm ngủ trước phòng khách, còn Huỳnh Văn N1, Huỳnh Văn B1 (con ruột của T) đã đi làm thuê, nên K vào phòng ngủ của N và cả hai tiếp tục giao cấu với nhau.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, kết luận giám định số số 443/22/TDTE ngày 27/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang. Do đó Hội đồng xét xử thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn K là người đã trưởng thành, nhưng không biết lo tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức để trở thành một công dân có ích cho gia đình. Vì dục vọng thấp hèn, coi thường nhân phẩm - danh dự của người khác và xem thường pháp luật đã dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục, nên cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không [5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo một số tình tiết giảm nhẹ như bị cáo xuất thân thành phần lao động, hiểu biết pháp luật hạn chế; bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự; sau khi vụ án xảy ra đã bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho bị hại số tiền 5.000.000 đồng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải.

[6] Các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản gồm: chi phí điều trị 4.600.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 20.000.000 đồng, tổng cộng là 24.600.000 đồng. Ngoài các khoản này ra không yêu cầu gì thêm.

Xét yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại đã được bị cáo đồng ý bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Sau khi vụ án xảy ra, bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại được số tiền 5.000.000 đồng, nên được khấu trừ.

Hiện nay ông T và bà Hết đã ly hôn. Theo Quyết định của Tòa án, em N được giao cho ông T chăm sóc, nuôi dưỡng, nên cần giao số tiền bị cáo bồi thường cho ông T nhận.

Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Thoại Sơn đã thu giữ được các vật chứng có liên quan đến vụ án như quần, áo của bị cáo và bị hại (đã qua sử dụng) nhưng không còn giá trị sử dụng, nên tuyên bố tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 9 năm 2022.

Áp dụng Điều 590; Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn K có trách Nệm bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại Huỳnh Thị Yến N (do ông Huỳnh Văn T nhận) chi phí điều trị 4.600.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 20.000.000 đồng, tổng cộng 24.600.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả được 5.000.000 đồng. Số tiền còn lại bị cáo bồi thường, khắc phục hậu quả là 19.600.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 áo vải ngắn, màu hồng, ngực trái và mặt lưng có hoa văn;

- 01 áo lót (áo ngực) màu trắng;

- 01 quần vải ống dài, sọc ca ro màu vàng nâu;

- 01 quần lót màu hồng;

- 01 áo vải ngắn tay, màu vàng;

- 01 áo lót (áo ngực), màu trắng;

- 01 quần vải jean ống ngắn, màu xanh;

- 01 quần lót màu hồng, mặt trước có hình hoa mai màu hồng;

- 01 gối màu vàng;

- 01 áo vải thun ngắn tay (loại có cổ) màu xanh, bên ngực trái và mặt lưng có lô gô chữ “CTY TNHH SX TM LÊ PHÚC K”;

- 01 quần vải jean, ống dài, màu xanh đen;

- 01 quần lót nam bằng vải màu đen đỏ, đai quần có dòng chữ nước ngoài màu đỏ.

Tất cả đã qua sử dụng.

(Các vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 05/QĐ-VKSTS, ngày 22/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn).

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 980.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã, thị trấn nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về