Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PH, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện PH mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2021/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, tên gọi khác: Không, sinh năm 2000; Tại Phú Yên; ĐKNKTT và chỗ ở: Khu phố x, thị trấn PH, Huyện PH, tỉnh Phú Yên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 7/12; Con ông Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị Út C, sinh năm 1978; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Thị Như Thủy văn phòng Luật sư Dân P thuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Bị hại: Nguyễn Hoài H, sinh ngày 16/9/2005;

Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Bà Võ Thị Tuyết H, sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Thôn CT, xã HDT, Huyện PH, tỉnh Phú Yên. Đều có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Nguyễn Ninh là Luật sư ký Hợp đồng của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Võ Thị Tuyết H, sinh năm 1985 và ông Nguyễn Tấn K, sinh năm 1979; Cùng địa chỉ: Thôn CT, xã Hòa ĐT, Huyện PH, tỉnh Phú Yên. Bà H có mặt, ông K vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bà Nguyễn Thị Út C, sinh năm 1978 và ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1977; Cùng địa chỉ: Khu phố x, thị trấn PH, Huyện PH, tỉnh Phú Yên. Đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng tháng 5/2020 Nguyễn Văn P quen biết và có tình cảm yêu đương với Nguyễn Hoài H, sinh ngày 16/9/2005, trú tại Thôn CT, xã HDT nên P thường xuyên đến nhà H chơi và chở H về nhà P tại Khu phố x, thị trấn PH chơi. Khoảng tháng 7/2020 P H đã thực hiện hành vi giao cấu với nhau tại nhà H, sau đó P H nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với nhau tại nhà H và nhà P. Đến tháng 8/2020, thấy H có biểu hiện khác thường nên bà Võ Thị Tuyết H là mẹ ruột của H đưa H đi khám thì xác định H đã mang thai. Ngày 24/10/2020 ông Nguyễn Văn P là cha ruột của P và ông Nguyễn Tấn K là cha ruột của H tổ chức lễ cưới cho P H. Sau đó P H giao cấu với nhau nhiều lần và lần cuối cùng là ngày 08/3/2021. Ngày 22/4/2021 H sinh con và đặt tên Nguyễn Gia Thiên P. Quá trình chung sống, P và gia đình H phát sinh mâu thuẫn nên P về nhà cha mẹ ở thị trấn PH ở. Ngày 17/5/2021, bà Võ Thị Tuyết H làm đơn tố cáo P đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện PH yêu cầu điều tra làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 1329/C09-DD3 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Nguyễn Gia Thiên P, sinh ngày 22/4/2021 là con đẻ của Nguyễn Hoài H Nguyễn Văn P.

Tại Bản cáo trạng số 39/CT-VKSPH ngày 29/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân Huyện PH đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại Nguyễn Hoài H trình bày: Đã nhận 20.000.000 đồng của bị cáo bồi thường thiệt hại nên không có yêu cầu gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc cho bị hại.

Người đại diện theo pháp luật của bị hại bà Võ Thị Tuyết H trình bày: Không yêu cầu bị cáo bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào.

Về hình sự: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Những người có quyền lợi nghĩa, vụ liên quan ông Nguyễn Văn P, bà Võ Thị Tuyết H, Nguyễn Thị Út C trình bày: Do không hiểu biết pháp luật nên khi thấy P, H yêu nhau và đã có thai nên tổ chức lễ cưới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện PH thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất và mức độ hành vi phạm tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo tại Cáo trạng số 39/CT-VKSPH ngày 29 tháng 11 năm 2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 145, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P từ 03 đến 04 năm tù, thời hạn tù kể từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất điều khoản như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử xử theo nguyện vọng của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện PH, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện PH, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và kết quả điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định phù hợp với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được thu thập đúng thủ tục tố tụng đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2020 đến ngày 08/3/2021, tại Thôn CT, xã HDT và tại Khu phố x, thị trấn PH, Nguyễn Văn P nhiều lần giao cấu với Nguyễn Hoài H, sinh ngày 16/9/2005, làm H mang thai và sinh con vào ngày 22/4/2021 đặt tên là Nguyễn Gia Thiên P. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 39/CT-VKSPH ngày 29/11/2021 truy tố bị cáo là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe sinh sản của người khác, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của bị hại H nên phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã bồi thường 20.000.000 đồng cho bị hại để khắc phục hậu quả và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, xuất phát từ tình cảm trai gái, giữa bị cáo và bị hại là người yêu của nhau, sau khi bị cáo uống bia ở nhà bà con của bị hại, bị hại cho bị cáo vào phòng của mình ngủ lại, sau đó bị hại vô phòng mà bị cáo P đang ngủ để ngủ cùng với bị cáo, lại có ý thức để mặc và hợp tác khi bị cáo sờ mó vào vùng kính trên cơ thể bị hại rồi cả hai cùng thực hiện hành vi giao cấu, được gia đình hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới nên bị cáo và bị hại ý thức đã là vợ chồng của nhau nên thực hiện hành vi giao cấu nhiều lần là không tránh khỏi. Bị cáo có nhân thân tốt, khong hiểu biết pháp luật, vẫn quan tâm, chăm sóc cho bị hại và con chung Nguyễn Gia Thiên P với trách nhiệm của một người chồng, người cha. Tại phiên tòa bị hại tha thiết xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc cho bị hại nhưng người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xử theo quy định của pháp luật, đúng người, đúng tội. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét mức án phù hợp đủ tác dụng giáo dục bị cáo và tạo cơ hội cho bị cáo sớm có điều kiện được chăm sóc cho bị hại. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm lao động cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về dân sự: Không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Hành vi của Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Tấn K, Võ Thị Tuyết H Nguyễn Thị Út C tổ chức lễ cưới cho Nguyễn Văn P Nguyễn Hoài H nhưng chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tổ chức tảo hôn nên Viện kiểm sát không truy tố là có cơ sở.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyến bố:

Bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/ UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Hoà - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về