TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 189/2023/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 783/2023/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 12 năm 2023; đối với bị cáo:
Lò Văn T, sinh ngày 24 tháng 02 năm 2003 tại Đ; ĐKNKTT: Thôn P, xã E, huyện C, tỉnh Đắc Nông; trú tại: Khu Đ, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn L và bà Hà Thị U; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 03-5-2023, tạm giam từ ngày 11-5-2023; có mặt.
- Bị hại: Cháu Chiu Thị K, sinh ngày 10 tháng 7 năm 2009; nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
- Người giám hộ cho cháu Chìu Thị K: Ông Chiu Văn Q, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; là bố đẻ cháu K; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 12-2022, qua mạng xã hội Facebook, Lò Văn T có quen cháu Chiu Thị K (sinh ngày 10-7-2009; nơi cư trú: Thôn A, Đường H, H, Quảng Ninh). Ngày 28-4-2023, T có rủ cháu K đi về Hải Phòng chơi, cháu K đồng ý. Đến chiều ngày 29-4-2023, T đón cháu K ở khu vực cầu vượt B, sau đó đi ăn uống rồi về phòng trọ của T tại khu Đ, A, Đ, Ngô Quyền . Đến khoảng 21 giờ 31 phút cùng ngày, do phòng trọ đông người nên T đã rủ cháu K ra nhà nghỉ, cháu K đồng ý. Sau đó, cả hai đến khách sạn L1 tại địa chỉ: số c, lô B, đường L, Đ, Ngô Q1, lấy phòng số 402 để nghỉ. Khi vào trong phòng cả hai nằm trên giường thì T nảy sinh ý định giao cấu nên đã hỏi cháu K, cháu K gật đầu đồng ý. Tân ôm hôn cháu K rồi dùng tay cởi quần dài và quần lót của cháu K, sau đó tự tay cởi quần của mình ra và thực hiện hành vi giao cấu với cháu K được khoảng ba phút thì xuất tinh vào trong âm hộ của cháu K, cả hai nằm ngủ đến sáng rồi T chở cháu K về phòng trọ của mình, sau đó đi làm.
Khoảng 20 giờ ngày 01-5-2023, khi cháu K và T đang nằm tại phòng trọ thì T nảy sinh ý định giao cấu, cháu K đồng ý. T dùng tay cởi quần của cháu K, sau đó tự cởi quần của mình rồi thực hiện hành vi giao cấu với cháu K được khoảng ba phút rồi T xuất tinh vào trong âm hộ của cháu K.
Ngày 02-5-2023, ông Chiu Văn Q (bố cháu K) có đơn trình báo đến Công an phường Đ, quận N và giao nộp 01 áo phông ngắn tay màu đen, cổ tròn; 01 quần dài màu đen; 01 quần lót nữ màu đỏ và 01 áo phông trắng ngắn tay, cổ tròn của cháu Chiu Thị K. Cùng ngày, Lò Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N đầu thú, khai nhận toàn bộ sự việc phạm tội phù hợp với nội dung nêu trên và giao nộp: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng; 01 áo phông ngắn tay, cổ tròn, màu trắng; 01 quần vải dài màu xám và 01 quần dài màu đen (là quần áo của cháu K và Tân mặc vào ngày 01-5-2023).
Kết luận giám định pháp y số 265/2023/KLXHTD-TTPYHP ngày 08-5- 2023 của Trung tâm giám định pháp y - Sở Y kết luận: Màng trinh rách cũ, không có xác định được thời gian rách và không có hướng dẫn đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể trong Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28-8-2019 quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần Bộ Y1. Không có xác tinh trùng trên mẫu xét nghiệm phiến đồ âm đạo. Hiện tại nạn nhân không có thai, không có dấu vết thương tích trên cơ thể và quanh bộ phận sinh dục. Trung tâm P không kết luận nạn nhân có bị xâm hại tình dục hay không.
Kết luận giám định số 91/KL-KTHS ngày 24-5-2023 của Phòng Kl, Công an thành phố H kết luận: Trên quần lót gửi giám định có dấu vết tinh dịch, tinh trùng của một người nam giới có nhiễm sắc thể Y trùng khớp với nhiễm sắc thể Y của Lò Văn T.
Đồ vật, vật chứng của vụ án: Chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Ngô Quyền quản lý: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng; 01 áo phông ngắn tay, cổ tròn, màu trắng; 01 quần vải dài màu xám; 01 quần dài màu đen; 01 áo phông ngắn tay màu đen, cổ tròn; 01 quần dài màu đen; 01 quần lót nữ màu đỏ và 01 áo phông trắng ngắn tay, cổ tròn.
Cáo trạng số 198/CT-VKSNQ, ngày 27-11-2023 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhu nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đã truy tố. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 04 đến 05 năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng; 01 áo phông ngắn tay, cổ tròn, màu trắng; 01 quần vải dài màu xám; 01 quần dài màu đen; 01 áo phông ngắn tay màu đen, cổ tròn; 01 quần dài màu đen; 01 quần lót nữ màu đỏ và 01 áo phông trắng ngắn tay, cổ tròn.
- Buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Trong quá trình điều tra và truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị hại (cháu Chiu Thị K) và người đại diện hợp pháp của bị hại (ông Chiu Văn Q) vắng mặt và đã có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa. Bị cáo và Kiểm sát viên đều đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại. Xét thấy bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đều đã có lời khai tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt đối với bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại.
- Về nhận định các tình tiết của vụ án:
[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đã có đủ cơ sở kết luận: Lò Văn T đã thực hiện hành vi giao cấu có sự đồng thuận của cháu Chiu Thị K, cụ thể: Vào ngày 29-4-2023, T đã giao cấu với cháu K tại phòng số 402 khách sạn L1, địa chỉ: số c, lô B, đường L, Đ, N, Hải Phòng. Ngày 01-5-2023, T đã giao cấu với cháu K tại phòng trọ của T, địa chỉ: Khu Đ, A, Đ, Ngô Q1, Hải Phòng. Tại thời điểm T thực hiện hành vi giao cấu, cháu K mới 13 năm 09 tháng 19 và 21 ngày tuổi.
[4] Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tình tiết định khung: Bị cáo Lò Văn T đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu Chiu Thị K vào các ngày 29-4-2023 và ngày 01-5-2023 nên đã vi phạm tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”, được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.
[6] Do vậy Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đã truy tố các bị cáo với tội danh và điều luật như đã viện dẫn và phân tích ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[7] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm trước pháp luật, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; bị hại và người đại diện hợp pháp có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[9] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[10] Về áp dụng hình phạt: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 04 đến 05 năm tù. Xét thấy, bị cáo có nhiều tính tình tiết giảm nhẹ và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên nên chỉ cần xử phạt bị cáo mức án trên khởi điểm của khung hình phạt và thấp hơn mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của bị cáo.
[11] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tại phiên tòa bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt. Tại giai đoạn điều tra và đến giai đoạn chuẩn bị xét xử bị hại (cháu K) và người đại diện hợp pháp của bị hại đều không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[12] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu trắng; 01 áo phông ngắn tay, cổ tròn, màu trắng; 01 quần vải dài màu xám; 01 quần dài màu đen; 01 áo phông ngắn tay màu đen, cổ tròn; 01 quần dài màu đen; 01 quần lót nữ màu đỏ và 01 áo phông trắng ngắn tay, cổ tròn. Đây là quần áo của bị cáo, bị hại đã mặc vào ngày 01-5-2023 và tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra - Công an quận N để phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Bị cáo và bị hại đều nêu ý kiến đề nghị không nhận lại do những tài sản này đều đã cũ và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[13] Về án phí: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo Lò Văn T 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 03-5-2023.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu trắng; 01 áo phông ngắn tay, cổ tròn, màu trắng; 01 quần vải dài màu xám; 01 quần dài màu đen; 01 áo phông ngắn tay màu đen, cổ tròn; 01 quần dài màu đen; 01 quần lót nữ màu đỏ và 01 áo phông trắng ngắn tay, cổ tròn.
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 182/QĐ-VKSNQ ngày 27-11-2023 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-11-2023 giữa Công an quận N và Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Lò Văn T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 04/2024/HS-ST
Số hiệu: | 04/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về