TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Mai Duy K, tên gọi khác: Cu, sinh ngày 04/7/2004; Nơi sinh: Chợ M, An Giang; Nơi thường trú: Ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Xuân L, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1978; Anh, chị, em ruột: Có 02 người (lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2001); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2023 đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Cháu Châu Nguyễn Phượng H, sinh ngày 13/6/2009. (Xin vắng mặt)
Người đại diện theo pháp luật cho bị hại:
Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1990. (Có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Đinh Thị Ánh Hồng V-Trợ giúp viên pháp lý-Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố C-có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm, 1978. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Q, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ.
Người làm chứng:
- Bà Trần Thị Hồng T, sinh năm 1995. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.
- Bà Phan Kim X, sinh năm 1952. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ ngày 23/6/2023 anh Châu Trung H1 đến Công an xã T sự việc phát hiện con gái tên Châu Nguyễn Phượng H - sinh ngày 13/6/2009, trú tại ấp P, xã T, huyện V có quan hệ tình dục với người khác, nhận thấy hồ sơ có dấu hiệu tội phạm nên cùng ngày Công an xã đã chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra Công an huyện V để điều tra làm rõ.
Quá trình điều tra đã chứng minh được: Vào khoảng đầu tháng 10/2022 bị cáo Mai Duy K quen biết và có tình cảm yêu thương với Phượng H. Trong thời gian quen nhau K thường sử dụng điện thoại di động truy cập mạng xã hội Facebook nhắn tin qua ứng dụng Messenger để liên lạc, đến nhà chở H đi ăn uống và đã quan hệ tình dục với H được 04 lần, cụ thể:
- Lần thứ 1, 2: Vào chiều ngày 04/10/2022 bị cáo K điều khiển xe mô tô biển số 67L2 – X chở H đi nhậu tại ấp V, thị trấn V, đến khoảng 22 giờ cùng ngày bị cáo K chở H vào nhà nghỉ T1 thuộc ấp V, thị trấn V thuê phòng số 04, tại đây bị cáo K đã quan hệ tình dục với H được khoảng 40 phút thì xuất tinh vào bao cao su; cả hai nằm ngủ đến khoảng 05 giờ sáng ngày 05/10/2022 thì bị cáo K tiếp tục quan hệ tình dục với H một lần nữa khoảng 20 phút thì xuất tinh vào bao cao su, sau đó trả phòng rồi bị cáo K chở H về nhà.
- Lần thứ 3, 4: Khoảng 10 giờ ngày 09/10/2022 bị cáo K điều khiển xe mô tô biển số 67L2 - X chở H đi huyện C, tỉnh An Giang để vui chơi và ăn uống, đến khoảng 22 giờ cùng ngày bị cáo K chở H vào nhà nghỉ “Vĩnh Nghi” thuộc huyện C, tỉnh An Giang thuê phòng số 03, tại đây bị cáo K đã quan hệ tình dục với H được khoảng 20 phút thì xuất tinh vào bao cao su, cả hai nằm ngủ đến khoảng 09 giờ sáng ngày 10/10/2022 bị cáo K tiếp tục quan hệ tình dục với H một lần nữa khoảng 10 phút thì xuất tinh vào bao cao su, sau đó trả phòng rồi bị cáo K chở H về nhà. Khi về đến nhà thì bị cáo K gặp anh Châu Trung H1, biết việc cả hai có quan hệ yêu thương nên anh H1 kêu bị cáo K đừng dẫn H đi chơi nữa để cho H học hành. Đến ngày 12/10/2022 K nhắn tin cho anh H1 xin chở H đi chơi nhưng anh H1 không trả lời, vài ngày sau bị cáo K tự xóa hết tin nhắn, xóa kết bạn và không còn liên lạc với H nữa.
Tiến hành đối chất giữ bị cáo K và H thể hiện: Cả hai đã quan hệ tình dục với nhau tổng cộng 04 lần, tại các lần quan hệ tình dục đều tự nguyện, K không có ép buộc hay uy hiếp đối với H.
Căn cứ kết luận giám định về độ tuổi trên người sống số 409/KLGĐĐT- TTPYCT ngày 12/7/2023 của Trung tâm pháp y sở y tế thành phố C, kết luận: Qua quá trình khám giám định, kết quả cận lâm sàng, xác định Mai Duy K có độ tuổi từ 19 năm 00 tháng đến 19 năm 06 tháng (tại thời điểm giám định ngày 07/7/2023). Như vậy tại thời điểm quan hệ tình dục ngày 04/10/2022 thì K đã trên 18 tuổi.
Căn cứ giấy chứng nhận thương tích số 07/CN ngày 23/6/2023 của Bệnh viện đa khoa huyện V về việc khám trinh của Châu Nguyễn Phượng H, sinh ngày 13/6/2009 kết luận: Màng trinh có vết rách.
Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSVT ngày 20/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh truy tố bị cáo Mai Duy K về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa bị cáo thống nhất với nội dung cáo trạng và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, không bổ sung gì thêm, đồng thời đề nghị:
* Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố: Bị cáo Mai Duy K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Đề nghị xử phạt bị cáo Mai Duy K từ 04 năm tù đến 05 năm tù giam. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra gia đình bị hại H và phía gia đình của K đã thỏa thuận bồi thường xong số tiền 25.000.000 đồng nhưng hiện tại K chưa bồi thường * Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Đối với 01 điện thoại di động Samsung A53 5G, màu đen, số EMEI:
350331800915006, số EMEI 2: 352406220915006 (đã qua sử dụng) của bị cáo K dùng liên lạc với bị hại Hoàng liên q đến vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước - Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave RSXFI, màu trắng đen, gắn biển số: 67L2-X, số khung: RLHJA3854NY111534, số máy: JA52E0376593 (không kiểm tra chất lượng bên trong xe) là tiền của bà Ú mẹ của bị cáo K mua và để cho K đứng tên dùm bà Ú nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bà Út Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại thống nhất với nhận định và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
Đối với người bị hại xin vắng mặt và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai trong quá trình điều tra, trường hợp cần thiết sẽ công bố lời khai, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Trong quá trình điều tra và qua thẩm tra, tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Như vậy, có đủ cơ sở xác định bị cáo và bị hại có tình cảm yêu thương nhau và đã tự nguyện quan hệ tình dục với nhau 04 lần vào ngày 04/10/2023 và vào ngày 09/10/2023 khi bị hại chưa đủ 16 tuổi. Căn cứ giấy chứng nhận thương tích số 07/CN ngày 23/6/2023 của Bệnh viện đa khoa huyện V về việc khám trinh của Châu Nguyễn Phượng H, sinh ngày 13/6/2009 kết luận: Màng trinh có vết rách. Hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự, việc đưa ra truy tố và xét xử bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Xét bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo quan hệ tình dục với bị hại đến 04 lần nhưng do tin tưởng bị hại mà chưa nghĩ đến hậu quả. Mặc dù, giữa bị cáo và bị hại có quan hệ tình cảm yêu thương nhau nhưng tính đến ngày bị xâm phạm thì bị hại chưa đủ 16 tuổi, ở tuổi này cơ quan sinh sản của bị hại chưa phát triển toàn diện, nhận thức của bị hại chưa đầy đủ, đúng đắn về mặt tình cảm, nếu bị xâm phạm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản và sự phát triển bình thường về mặt thể chất và tâm sinh lý của trẻ em nên được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường tiền cho bị hại, đại diện hợp pháp bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. [6] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 25.000.000 đồng, bị cáo K đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên.
[7] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
[8] Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động Samsung A53 5G, màu đen, số EMEI: 350331800915006, số EMEI 2: 352406220915006 (đã qua sử dụng) của bị cáo K dùng liên lạc với bị hại Hoàng liên q đến vụ án nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước - Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave RSXFI, màu trắng đen, gắn biển số: 67L2 – X, số khung: RLHJA3854NY111534, số máy: JA52E0376593 (không kiểm tra chất lượng bên trong xe) tại phiên tòa bị cáo và bà Ú là mẹ của bị cáo điều thừa nhận là tiền của bà Ú mua và để cho K đứng tên dùm bà Ú và xe là của bà Ú quản lý sử dụng nên trả lại cho bà Ú là phù hợp.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định. nhận.
Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.
Xét người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại là có cơ sở chấp
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Mai Duy K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Mai Duy K 04 (B) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 06/11/2023.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 590 và 592 của Bộ luật dân sự Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo K và người đại diện hợp pháp của bị hại, cụ thể: Bị cáo Mai Duy K bồi thường cho bị hại châu Nguyễn Phương H2 số tiền 25.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ bồi thường nói trên thì phải chịu thêm lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Samsung A53 5G, màu đen, số EMEI: 350331800915006, số EMEI 2: 352406220915006 (đã qua sử dụng);
- Trả lại cho bà Ú 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave RSXFI, màu trắng đen, gắn biển số: 67L2 – X, số khung: RLHJA3854NY111534, số máy: JA52E0376593 (không kiểm tra chất lượng bên trong xe).
(Vật chứng được lưu giữ tại kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh theo Quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ-VKSVT ngày 20/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Mai Duy K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.250.000 án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại và người liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 01/2024/HS-ST
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về