Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 18/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HT, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HT, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2024/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2024.

Trịnh Văn C, sinh năm 1970, tại tỉnh T; Số căn cước công dân: 07207000xxxx;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số 77/5, khu phố Hiệp Hòa, phường Hiệp Tân, thị xã HT, tỉnh T.

Nơi cư trú: Khu phố Long Mỹ, phường Long Thành Bắc, thị xã HT, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ văn hóa: 09/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trịnh Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị TA; Sống chung như vợ chồng với chị Trần Thị Kim T; Con có 02 người lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Không có;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/11/2023 cho đến nay có mặt tại Tòa.

Bị hại: Em Trần Thị Ngọc Tr, sinh ngày 10/3/2010 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp Hiệp Trường, xã Hiệp Tân, thị xã HT, tỉnh T.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Tr:

Ông Trần Quốc Th, sinh năm 1982 (có mặt). (cha ruột em Tr) Bà Nguyễn Thị Ngọc V1, sinh năm 1981 (có mặt). (mẹ ruột em Tr) Cùng địa chỉ: ấp Long Yên, xã Long Thành Nam, thị xã HT, tỉnh T

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại:

Trần Thị Cẩm V2 - Là Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Văn C đã ly thân vợ là Trần Thị Kim T và sống một mình tại nhà riêng số 47, đường số 15 Nguyễn Văn Linh, khu phố Long Mỹ, phường Long Thành Bắc, thị xã HT, tỉnh T. Thường ngày, C hay sang nhà T để đón con ruột là cháu Trịnh Yến M, sinh năm 2015 và cháu vợ là Trần Thị Ngọc Tr, sinh ngày 10/3/2010 (từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi), về nhà riêng chơi và hát karaoke.

Khoảng 08 giờ ngày 01/8/2023, bị cáo C đón M và Tr đến nhà hát karaoke được một lúc thì M đi ngủ, C nảy sinh ý định quan hệ tình dục với Tr nên kêu Tr vào phòng ngủ và nói “cho dượng hôn con đi rồi dượng cho tiền xài” thì Tr đồng ý. Lúc này, C bắt đầu cởi hết quần áo của Tr và bật phim đồi truỵ để cho Tr xem thực hiện theo phim, đồng thời C bắt đầu dùng tay sờ vào vùng ngực và phía ngoài âm hộ của Tr khoảng 10 phút thì C đòi quan hệ tình dục nhưng Tr không đồng ý nên C đưa dương vật vào vùng miệng của Tr thực hiện hành vi quan hệ tình dục qua miệng cho đến khi C xuất tinh ra bên ngoài. Sau khi thực hiện xong, C cho cháu Tr số tiền 500.000 đồng và chở đưa Tr cùng M về nhà.

Ngày 08/8/2023, C tiếp tục đến nhà T để chở M và Tr về nhà chơi với mục đích quan hệ tình dục với Tr. Khi cháu Tr đến nhà, C hỏi ý kiến để quan hệ tình dục với Tr và hứa cho Tr số tiền 300.000 thì Tr đồng ý. Sau đó cả hai vào phòng ngủ, C và Tr ôm hôn nhau rồi thực hiện hành vi giao cấu. Sau khi giao cấu với Tr được khoảng 05 phút thì C xuất tinh ra bên ngoài. Quan hệ xong, C đưa cho Tr số tiền 300.000 đồng và chở Tr, M về nhà.

Tương tự như hai lần trên, từ ngày 12/8/2023 đến ngày 10/9/2023, tại nhà ở của mình, C tiếp tục thực hiện 09 lần hành vi giao cấu với Tr và tất cả các lần quan hệ đều được Tr đồng ý. Sau mỗi lần thực hiện hành vi giao cấu với Tr, C đều cho Tr tiền nhưng không nhớ cụ thể số tiền chính xác, chỉ nhớ cao nhất là 500.000 đồng, thấp nhất là 100.000 đồng. Ngày 13/9/2023, Nguyễn Thị Ngọc V1, (mẹ ruột của Tr) phát hiện sự việc nên trình báo Công an.

*Tại Bản kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số: 38/KLTDTE- TTPYTN ngày 18/9/2023 của Trung tâm pháp y sở y tế tỉnh T, kết luận: Màng Tr của Trần Thị Ngọc Tr bị rách cũ vị trí 1 giờ, 5 giờ, 11 giờ. Hiện tại không phát hiện có thai.

*Kết quả xét nghiệm kháng thể kháng HIV ngày 12/12/2023 của Trung tâm y tế thị xã Hoà Thành, tỉnh T kết luận: Trịnh Văn C âm tính với HIV.

Trong quá trình điều tra, Trịnh Văn C đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình Trần Thị Ngọc Tr.

Tại bản Cáo trạng số: 07/CT-VKSCT ngày 11 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thị xã HòaThành, tỉnh T đã truy tố bị cáo Trịnh Văn C về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HòaThành, tỉnh Tây ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trịnh Văn C về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo cáo Trịnh Văn C phạm tội như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đã bồi thường cho gia đình bị hại. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo cáo Trịnh Văn C từ 04 năm đến 05 năm tù.

Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo Trịnh Văn C đã bồi thường cho ông Trần Quốc Th, bà Nguyễn Thị Ngọc V1 (là cha mẹ ruột của Trần Thị Ngọc Tr) số tiền 30.000.000 đồng; ông Th, bà V1 không yêu cầu bồi thường gì thêm và đã làm đơn bãi nại cho bị cáo. Tại phiên tòa ông Th, bà V1 rút lại yêu cầu bãi nại cho bị cáo C và yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã HòaThành, tỉnh T và không có ý kiến gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã HòaThành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã HòaThành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo thực hiện: Vào ngày 01/8/2023 bị cáo Trịnh Văn C muốn quan hệ tình dục với cháu Tr nên đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với cháu Tr cho đến khi C xuất tinh ra bên ngoài. Sau khi thực hiện xong, bị cáo C cho cháu Tr số tiền 500.000 đồng và chở Tr cùng M về nhà.

Ngoài ra trong khoảng thời gian ngày 08/8/2023 đến ngày 10/9/2023, tại nhà riêng của mình số 47, đường số 15 Nguyễn Văn Linh, khu phố Long Mỹ, phường Long Thành Bắc, thị xã HT, tỉnh T, Trịnh Văn C đã thực hiện tổng cộng 10 lần hành vi giao cấu với Cháu Trần Thị Ngọc Tr, sinh ngày 10/3/2010, là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Văn C đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

[3]. Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, sự phát triển bình thường tâm sinh lý của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết xử phạt mức án tương xứng, cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000 đồng. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về biện pháp tư pháp:

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của cháu Trần Thị Ngọc Tr là ông Trần Quốc Th và bà Nguyễn Thị Ngọc V1 không yêu cầu bị cáo C bồi thường gì thêm.

[6]. Xét lời trình bày của Bà Trần Thị Cẩm V2 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Trẩn Thị Ngọc Tr trình bày:

Bà thống nhất với cáo trạng Truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã HT về tội danh và hình phạt đề nghị xét xử bị cáo từ 04 đến 05 năm tù. Bị cáo Trịnh Văn C lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bị hại Trần Thị Ngọc Tr đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với bị hại 01 lần và giao cấu 10 lần. Nên đề nghị Hội đồng xét xử một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo thực hiện. Ghi nhận gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

[7]. Về án phí: Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn C phạm tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 145; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn C 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/11/2023.

2. Về bồi thường thiệt hại:

Ghi nhận bị cáo Trịnh Văn C đã bồi thường cho gia đình bị hại Trần Thị Ngọc Tr số tiền 30.000.000 đồng, gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Trịnh Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 18/2024/HS-ST

Số hiệu:18/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về