Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 45/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 23/09/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 23 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/TLST - HS ngày 29 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Võ Minh H, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2001, tại Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm nghề tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đức S, sinh năm 1979 và bà Hồ Thị X, sinh năm 1976; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 13/4/2023 bị cáo bị bắt để tạm giam đến nay, bị cáo đang bị tạm giam, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Võ Minh H: Ông Huỳnh Ngọc Ấ, Luật sư Văn phòng Luật sư Quốc Â, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi;

Bị hại: Chị Bùi Thị Kim A, sinh ngày 07/01/2009; nơi cư trú: Thôn D, xã P thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

Người đại diện theo pháp luật của chị A: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1982 và bà Phạm Thị Kim C, sinh năm 1979 (Là cha, mẹ của chị A).

Cùng nơi cư trú: Thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho chị A: Bà Hồng Thị Tr là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước – Sở Tư Pháp tỉnh Quảng Ngãi (theo Quyết định về việc cử Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng số 73/QĐ -TGPL ngày 28/02/2023 của Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi); có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 07/02/2023, Võ Minh H, sinh năm 2001 ở xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi đi đến khu nhà trọ R thuộc Tổ dân phố 1, phường N, thị xã Đ để thuê phòng trọ; tại đây H gặp chị Bùi Thị Kim A, sinh ngày 07/01/2009 (chị A cùng mẹ là bà Phạm Thị Kim C đang trọ ở phòng số 22 của khu nhà trọ R). Võ Minh H được chủ nhà trọ R cho thuê phòng số 10 để ở.

Chiều ngày 09/02/2023, H gặp chị A ngồi chơi ở ghế đá phía sau nhà trọ, giữa H và chị A có nói chuyện qua lại với nhau. Tối cùng ngày, chị A đi đến phòng trọ số 10 và hỏi H “Em vào phòng chơi được không” thì H đứng dậy mở cửa phòng trọ cho A vào, đồng thời H có nói “Vào nhớ đóng cửa”; chị A đi vào phòng đóng cửa và chốt khóa trong lại. Lúc này, H đang nằm chơi game trên tấm nệm trong phòng nên chị A ngồi xuống tấm nệm, một lúc sau, H bảo chị A nằm xuống tấm nệm và chị A nằm gác đầu lên vai của H, H dùng tay để lên ngực của A và hỏi “Để đây được không” thì A trả lời “ừ”, H tiếp tục ôm hôn đồng thời dùng tay sờ vào ngực của A, chị A không có phản ứng gì mà quay lại dùng tay ôm vào người H. Sau đó, H và A đã thực hiện việc giao cấu với nhau.

Tối ngày 10/02/2023, chị A nhắn tin qua Zalo cho H với nội dung “Tối nay em qua ngủ với anh được không”, H trả lời “Có mẹ em mà sao qua ngủ được”, A nhắn lại “04 giờ em qua được không”, H trả lời “lúc đó anh ngủ mất rồi”, A nhắn lại “A ngủ để cửa, đừng có khóa”. Đến khoảng 05 giờ ngày 11/02/2023, chị A đi vào phòng của H và đóng cửa lại. A đến nằm xuống tấm nệm nơi H đang nằm và dùng tay ôm H. Một lúc sau, H và A đã thực hiện việc giao cấu với nhau.

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 12/02/2023 chị A lại đi vào phòng trọ của H rồi H và chị A nằm ôm hôn nhau trên tấm nệm, lần này H chỉ dùng tay sờ vào âm hộ, âm đạo của chị A chứ không thực hiện việc giao cấu. Sau đó, bà Phạm Thị Kim C (mẹ chị A) đi tìm thì phát hiện chị A đang ở trong phòng trọ số 10 của Võ Minh H nên đã trình báo cho Công an phường N. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Đ đã tiến hành làm việc với Võ Minh H, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Tại kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 52/TDTE ngày 16/02/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận như sau: Màng trinh dãn rộng, rách cũ vị trí 09h; âm đạo nhiều huyết trắng; hiện tại không có thai; không tìm thấy hình ảnh tinh trùng. Hiện tại không 3 có dấu vết tổn thương cơ thể: 0,00% (không phần trăm);

- Tại kết luận giám định số 362/KL - KTHS ngày 17/3/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận như sau: Trong 07 (bảy) sợi nghi lông – tóc thu tại hiện trường có 01 (một) sợi là lông – tóc của Bùi Thị Kim A; 06 (sáu) sợi còn lại là lông – tóc người, do không còn gốc nên không giám định được ADN để truy nguyên đối tượng; chất màu nâu đỏ bám dính trên bao cao su là máu của Nguyễn Thị Minh S, không có máu của Bùi Thị Kim A và Võ Minh H; trong mẫu ghi thu dịch âm đạo của Bùi Thị Kim A không có xác tinh trùng người; trên tấm nệm có xác tinh trùng của Võ Minh H; trên tấm nệm có ADN của Nguyễn Thị Minh S và có ADN lẫn của nhiều người nên không truy nguyên được đối tượng.

- Tại kết luận giám định số 475/KL – KTHS, ngày 02/7/2023 của Phòng kỹ thuận hình sự công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:

+ Dữ liệu lưu trữ trong điện thoại di động, hiệu Iphone11, model: A2221, Imei 1: 350537093052170, Imei 2: 350537093322797 bao gồm: Không có nội dung tin nhắn giữa tài khoản “K" và “Bùi Thị Kim A” lưu trữ trong ứng dụng Zalo. Do không tìm thấy ứng dụng Zalo được cài đặt bên trong điện thoại di động; không có nội dung tin nhắn giữa số thuê bao “0931646X” và số thuê bao “0337384X” + Dữ liệu lưu trữ trong điện thoại di động hiệu OPPO, số máy: CPH2407, số Imei1: 869945064101997, số Imei 2: 869945064101989 gồm: Không có nội dung tin nhắn giữa tài khoản “Bùi Thị Kim A” và “K” lưu trữ trong ứng dụng Zalo; không có nội dung tin nhắn giữa số thuê bao “0337384X” và số thuê bao “0931646X”.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Đ đã thu giữ: 07 (bảy) sợi nghi lông, tóc thu giữ trên tấm nệm; 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, bám dính chất màu nâu đỏ; 01 (một) tấm nệm bọc vải thun màu xanh (loại 03 tấm gấp gọn) có dòng chữ “Happy day” màu đỏ KT (2 x 1,1 x 0,02) m; 01 hộp bao cao su có 02 bao chưa qua sử dụng; 01 vỏ hộp thuốc tránh thai có dòng chữ TRIFÈME - 72h; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, dung lượng 64GB, số máy: MHDA3VN/A, số IMEI: 350537093052170, bên trong có lắp thẻ sim số 0931646X, điện thoại đã qua sử dụng của Võ Minh H và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A57, dung lượng: 128GB, kiểu máy: CPH2407, số IMEI 1: 869945064101997, số IMEI 2: 869945064101989, bên trong có lắp thẻ sim số 0337384X, điện thoại đã qua sử dụng của Bùi Thị Kim A.

Tại Cáo trạng số 39/CT-VKS – ĐP, ngày 25 tháng 8 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Võ Minh H về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Minh H phạm tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi"; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Võ Minh H mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về dân sự: Bị cáo Võ Minh H đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 30.000.000 đồng. Bị hại đã có đơn bãi nại, không yêu cầu gì về dân sự.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho bị cáo Võ Minh H 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, dung lượng 64GB, số máy: MHDA3VN/A, số IMEI: 350537093052170, bên trong có lắp thẻ sim số 0931646X, điện thoại đã qua sử dụng; tịch thu tiêu hủy: 07 (bảy) sợi nghi lông, tóc thu giữ trên tấm nệm; 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, bám dính chất màu nâu đỏ; 01 (một) tấm nệm bọc vải thun màu xanh (loại 03 tấm gấp gọn) có dòng chữ “Happy day” màu đỏ KT (2 x 1,1 x 0,02) m; 01 hộp bao cao su có 02 bao chưa qua sử dụng; 01 vỏ hộp thuốc tránh thai có dòng chữ TRIFÈME - 72h.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO A57, dung lượng: 128GB, kiểu máy: CPH2407, số IMEI 1: 869945064101997, số IMEI 2: 869945064101989, bên trong có lắp thẻ sim số 0337384X, điện thoại đã qua sử dụng của Bùi Thị Kim A. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Đ đã trả lại cho Bùi Thị Kim A là phù hợp với quy định.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Thống nhất về tội danh mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố. Tuy nhiên, bị cáo Võ Minh H có nhân thân tốt. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo; xử bị cáo mức án 18 tháng tù để bị cáo sớm về với gia đình và làm một công dân tốt.

Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là bà Hồng Thị Tr trình bày: Hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Mặc dù, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo và gia đình đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo là người trưởng thành, đã được rèn luyện trong môi trường quân đội nhưng bị cáo xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được pháp luật bảo vệ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Võ Minh H và những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người bị hại và người đại diện theo hợp pháp của người bị hại vắng mặt nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra. Việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại; phù hợp với kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ ngày 09/02/2023 đến ngày 12/02/2023 tại phòng số 10 khu nhà trọ R ở Tổ dân phố 1, phường N, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, Võ Minh H đã 02 lần thực hiện hành vi giao cấu và một lần thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với chị Bùi Thị Kim A. Mặc dù, khi H thực hiện việc giao cấu có sự đồng thuận của chị A nhưng tại thời điểm giao cấu chị A chỉ mới 14 tuổi 01 tháng hai ngày. Do đó, hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo Võ Minh H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của chị A, gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc nên cần phải được xử lý nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Võ Minh H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo và gia đình đã khắc phục phần dân sự cho người bị hại, gia đình bị hại đã có đơn bãi nại về phần dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc.

Do đó, cần xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

[7] Do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định đối với bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, tạo điều kiện cho người phạm tội sửa chữa sai lầm, cố gắng rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị cáo Võ Minh H đã tác động và cùng gia đình bồi thường cho bị hại 30.000.000đồng. Đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền nào khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho Võ Minh H 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, dung lượng 64GB, số máy: MHDA3VN/A, số IMEI: 350537093052170, bên trong có lắp thẻ sim số 0931646X, điện thoại đã qua sử dụng;

- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng đã thu giữ không còn giá trị sử dụng gồm: Phần còn lại 07 (bảy) sợi nghi lông – tóc ghi thu tại hiện trường; phần còn lại 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, trên có dính chất màu nâu đỏ; phần còn lại mẫu ghi thu dịch trong âm đạo và mẫu tóc ghi thu của Bùi Thị Kim A; phần còn lại mẫu tóc ghi thu của Nguyễn Thị Minh S, Võ Minh H sau giám định; 01 (một) tấm nệm, bên ngoài bọc vải màu xanh, trên có chữ “Happy day”; 01 (một) hộp giấy màu xanh, bên trên có dòng chữ TRIFÈME - 72h và 01 (một) hộp bao cao su nhãn hiệu Durex, trong hộp có hai bao cao su chưa sử dụng và 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu Durex, đã bị xé vỏ.

[10] Về án phí: Bị cáo Võ Minh H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Về căn cứ truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[12] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận, không chấp nhận mức án (18 tháng) mà người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo.

[13] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là phù hợp với những nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[14] Bị cáo, người đại diện hợp pháp bị hại, người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 145; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Võ Minh H phạm tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi".

Xử phạt bị cáo Võ Minh H 2 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/4/2023).

2. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ các Điều 109, 113, 119 và 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tiếp tục tạm giam bị cáo Võ Minh H để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị cáo Võ Minh H 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, dung lượng 64GB, số máy: MHDA3VN/A, số IMEI: 350537093052170, bên trong có lắp thẻ sim số 0931646X, điện thoại đã qua sử dụng (được niêm phong tại 01 (một) phong bì màu trắng được dán kín, mặt trước có dòng chữ - số “Số: 475/KL-KTHS Mẫu vật giám định Điện thoại iphone (1/2)”, mặt sau có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và chữ ký Nguyễn Thế Anh).

- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng đã thu giữ còn lại gồm:

+ Phần còn lại 07 (bảy) sợi nghi lông – tóc ghi thu tại hiện trường; phần còn lại 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, trên có dính chất màu nâu đỏ; phần còn lại mẫu ghi thu dịch trong âm đạo và mẫu tóc ghi thu của Bùi Thị Kim A; phần còn lại mẫu tóc ghi thu của Nguyễn Thị Minh S, Võ Minh H sau giám định (được niêm phong tại 01 (một) phong bì màu trắng được dán kín, mặt trước có dòng chữ - số “BỘ CÔNG AN VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ Số: 362/KL- KTHS”, mặt sau có chữ ký Lê Văn Điệp, Nguyễn Viết Sang và đóng dấu giáp lai của Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Đà Nẵng).

+ 01 (một) tấm nệm, bên ngoài bọc vải màu xanh, trên có chữ “Happy day” được bỏ trong 01 (một) túi nilon trong suốt, tại phần mép được dán kín bằng giấy và băng keo trong, trên giấy có hình dấu của Phân viện Khoa học hình sự tại TP. Đà Nẵng và chữ ký của Lê Văn Đ và Nguyễn Viết S.

+ 01 (một) hộp giấy màu xanh, bên trên có dòng chữ TRIFÈME - 72h (được niêm phong tại 01 (một) túi niêm phong mã số NS3 2115393 được dán kín; bên ngoài có chữ ký của Lê Thị Thu V, Hồ Đức T, Võ Minh H, Dương Thành T) + 01 (một) hộp bao cao su nhãn hiệu Durex, trong hộp có hai bao cao su 8 chưa sử dụng và 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu Durex, đã bị xé vỏ (được niêm phong tại 01 (một) túi niêm phong mã số NS3 2115359 được dán kín; bên ngoài có chữ ký của Lê Thị Thu V, Hồ Đức T, Võ Minh H, Dương Thành T) ((Tất cả vật chứng, tài sản trên đều có đặc điểm như biên bản giao nhận tài liệu, vật chứng ngày 13/9/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đ).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Võ Minh H phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 45/2023/HS-ST

Số hiệu:45/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đức Phổ - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về