Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi số 78/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 78/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 84/2023/TLST-HS ngày 01/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2023/QĐXXST-HS ngày 22/11/2023 đối với bị cáo:

Trần Trí K, sinh năm 2000 tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Hoàng P, sinh năm 1977 và bà Tiêu Ngọc T, sinh năm 1976 (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/7/2023 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Võ Thị Mỹ T1, sinh ngày 26/5/2010; nơi cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang - Có mặt.

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Trương Thành L, sinh năm 1991 (vắng mặt); bà Võ Thị Bé T2, sinh năm 1991 (có mặt); cùng nơi cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang, (là cha, mẹ ruột của bị hại T1).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Minh T3 - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh A - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Thành L, sinh năm 1991 (Vắng mặt) và bà Võ Thị Bé T2, sinh năm 1991 (có mặt); cùng nơi cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người làm chứng:

1. Bà Trương Thị P1, sinh năm 1962 (có mặt).

2. Trần Đức Chí H, sinh năm 2005 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Chí K1 (sinh ngày 01/11/2000) và Võ Thị Mỹ T1 (sinh ngày 26/5/2010) cùng ngụ ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang. Khoảng tháng 4/2023, K1 kết bạn với T1 qua facebook; cả hai thường xuyên nhắn tin trò chuyện, rồi nảy sinh tình cảm. Từ ngày 13/6/2023 đến ngày 27/6/2023, K1 đã 03 lần thực hiện hành vi giao cấu với Võ Thị Mỹ T1 cụ thể như sau:

- Lần 01: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 13/6/2023, T1 đi bộ đến nhà K1 rồi đi vào phong ngủ từ cửa sau nhà, cả hai cùng nằm trên nệm trò chuyện qua lại rồi ôm hôn nhau, được một lúc thì K1 cởi áo T1, T1 tự cởi quần, K1 tự cởi quần áo của mình. Kiệt để T1 nằm ngửa trên giường nệm, K1 quỳ gối dưới mông T1 rồi đưa dương vật đang cương cứng vào âm đạo của T1 để giao cấu, đang giao cấu thì T1 nói đau nên K1 dừng lại không giao cấu nữa. Cả hai người tự mặc quần áo vào và T1 đi về nhà.

- Lần 02: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 18/6/2023, T1 đi bộ đến cửa sổ nhà K1 rồi kêu K1 mở cửa. Nghe tiếng T1 kêu K1 ra cửa mở cửa sau cho T1 vào, hai người đi vào phòng ngủ của K1 và cùng nằm trên nệm trò chuyện, ôm hôn nhau, được một lúc Kiệt cởi áo T1, T1 tự cởi quần của mình. Kiệt để T1 nằm ngửa trên nệm, K1 quỳ gối dưới mông T1 rồi dùng tay phải đưa dương vật đang cương cứng vào âm đạo của T1 để giao cấu, khoảng 10 phút thì dương vật của Kiệt xuất tinh trùng vào âm đạo của T1. Sau đó, T1 về nhà.

- Lần 03: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 27/6/2023, T1 đi bộ đến cửa sau nhà K1, K1 mở cửa cho vào. Hai người đi vào phòng ngủ và nằm trên nệm của K1 nói chuyện và ôm hôn nhau, một lúc sau K1 cởi áo T1, K1 tự cởi quần áo cửa mình. Kiệt để T1 nằm ngửa trên nệm, quỳ gối dưới mông T1 rồi cầm dương vật đưa vào âm đạo của T1 để giao cấu , khoảng 5 phút sau thì Kiệt xuất tinh trùng vào âm đạo của T1. Sau đó, hai người tự mặc quần áo vào và T1 đi về nhà.

Đến khoảng 19 giờ 30 ngày 28/6/2023, T1 nói với gia đình mình bị đau bụng và nôn ói nên đến sáng ngày 29/6/2023, bà Võ Thị Bé T2 (mẹ ruột của T1) đưa T1 đến bệnh viện S khám bệnh thì phát hiện T1 bị xâm hại tình dục nên đã làm đơn tố giác đến ngày 02/7/2023, K1 đến cơ quan công an đầu thú.

Bản kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em, số: 465/23/KLTDTE-TTPY ngày 05 tháng 7 năm 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh A kết luận Võ Thị Mỹ T1 (sinh năm ngày 26/5/2010) như sau:

- Màng trinh: rách cũ vị trí 01 giờ, 07 giờ, 09 giờ, chưa tới chân màng trinh.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 00%.

- Thai giai đoạn sớm.

Phiếu siêu âm ngày 05/10/2023, của Trung tâm y tế huyện C đối với Võ Thị Mỹ T1, kết luận: Hình ảnh siêu âm phụ khoa chưa phát hiện bệnh lý.

Văn bản số 201/BVSN- KHTH ngày 25/10/2023 của Bệnh viện sản nhi tỉnh An Giang, kết luận:

- Sau khi xem xét thì trong quá trình điều trị, bệnh viện không thực hiện nạo, hút thai cho bệnh nhân.

- Ngày 07/7/2023, nhập viện lần 02 chỉ số xét nghiệm máu hCG: 1.102mUI/ml, có thể khẳng định bệnh nhân có thai, diễn biến hCG sau đó giảm dần là phù hợp với chẩn đoán thai ngoài tử cung thoái triển. Kết quả hCG ngày 13/7/2023, đã giảm thấp còn 63.76 mUI/ml. Đến ngày 05/10/2023, tiến hành khám, kiểm tra thai với kết quả không có thai là phù hợp với diễn biến bệnh.

Kết quả xét nghiệm Determin ngày 12/9/2023 của Trung tâm Y tế huyện C, đối với Trần Trí K, kết luận: Âm tính.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A11, màu đen, số sê ri R9JN409NJVJ (đã qua sử dụng) của Trần Trí K.

Cáo trạng số: 81/CT-VKSCM ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, truy tố Trần Trí K về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà sơ thẩm:

- Bị cáo Trần Trí K khai nhận: Khoảng tháng 04/2023 đến tháng 27/6/2023, K quen biết và nảy sinh tình cảm yêu thương với em Võ Thị Mỹ T1, khi quen nhau K không biết T1 chưa đủ 18 tuổi. Trong thời gian quen nhau, bị cáo đã đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu đối với T1. Qua sự việc này, bị cáo thấy hành vi của mình là sai, bị cáo xin lỗi bị hại và gia đình bị hại. Đối với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, bị cáo không có ý kiến tranh luận, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội vừa qua.

- Bị hại Võ Thị Mỹ T1 trình bày: Do nhà ở gần nhau nên biết và kết bạn qua mạng xã hội Facebook, cả hai thường xuyên nhắn tin trò chuyện nên đã nảy sinh tình cảm. Từ ngày 13/6/2023 đến ngày 27/6/2023, T1 tự nguyện giao cấu với K 03 lần tại phòng ngủ ở nhà K, T1 không yêu cầu xử lý K chỉ yêu cầu K bồi thường chi phí điều trị 30.000.000 đồng.

- Đại diện gia đình bị hại bà Võ Thị Bé T2 (là mẹ ruột của Tl) trình bày: Bà B Tư sinh T1 vào ngày 26/5/2010, tại phòng khám Đ. Ngày 28/6/2023, nghe T1 nói bị đau bụng nên sáng ngày 29/6/2023 gia đình đưa đến Bệnh viện s để khám, thì phát hiện T1 bị K xâm hại tình dục, nên làm đơn tố giác. Không yêu cầu xử lý K; trước đây gia đình có yêu cầu K bồi thường 100.000.000 đồng chi phí điều trị và tổn thất tinh thần, danh dự nhân phẩm nhưng tại phiên tòa hôm nay thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường 30.000.000 đồng.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày: Thống nhất với nội dung Cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt. Bị cáo K đã trưởng thành, bị cáo đủ khả năng biết em T1 chưa đủ 16 tuổi và bị cáo biết giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật nhưng không kiềm chế được dục vọng nên đã thực hiện hành vi phạm tội và phải trả giá cho hành vi này. Ngoài phần lỗi của bị cáo còn có phần lỗi của gia đình bị hại trong việc giáo dục, quản lý con cái nên đã xảy ra sự việc này. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo được hưởng mức đầu khung hình phạt cũng đủ tác dụng răng đe đối với bị cáo. về trách nhiệm dân sự đại diện hợp pháp cho bị hại và bị cáo đã thống nhất mức bồi thường nên không có ý kiến.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Trí K từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa giữa đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo thống nhất mức bồi thường là 30.000.000đ, đây là sự tự nguyện giữa đại diện bị hại và bị cáo nên đề nghị ghi nhận.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu phát mãi nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động S1 đã qua sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Trần Trí K khai nhận, khoảng tháng 04/2023 đến tháng 27/6/2023, K quen biết và nảy sinh tình cảm yêu thương với em Võ Thị Mỹ T1, khi quen nhau K không biết T1 chưa đủ 18 tuổi. Trong thời gian quen nhau, bị cáo đã đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu đối với bị hại thì bị phát hiện như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, đại diện hợp pháp bị hại, phù hợp với Bản kết luận giám định số 465/2023 ngày 05/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh A; Văn bản số 201/BVSN-KHTH ngày 25/10/2023 của bệnh viện S; Biên bản khám nghiệm hiện trường và bản ảnh hiện trường cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Như vậy có đủ căn cu để xác định: Bị cáo Trần Trí K là người trưởng thành có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu đối với bị hại T1 trong khi bị hại T1 là người dưới 16 tuổi. Hành vi này của bị cáo đã cấu thành tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”, với tình tiết định khung là “Phạm tội 02 lần trở lên” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, với khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù.

Qua các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra tại phiên tòa; ý kiến bị cáo, người bào chữa; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị hại, lời khai người bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại. Việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo Trần Trí K về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội Bị cáo là người thành niên, khoẻ mạnh, nhận thức được hành vi của bản thân. Bị cáo biết rõ bị hại chưa đủ 16 tuổi, nhưng do thỏa mãn nhu cầu tình dục cho bản thân mà bị cáo đã bất chấp tất cả để cố ý phạm tội bằng việc lợi dụng sự chưa chín chắn trong nhận thức về tình yêu cũng như ý thức về quan hệ tình dục để nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu đối với bị hại. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền về nhân thân cũng như quyền trẻ em được pháp luật bảo vệ mà còn tạo dư luận không tốt cho sau này đối với bị hại và gia đình người bị hại, gây tâm lý hoang mang cho các bậc cha mẹ trong việc quản lý, giáo dục con cái. Do đó, cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo là tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, cần phê phán đối với ông Trương Thành L và bà Võ Thị Bé T2 (cha mẹ đẻ em T1) trong việc quản lý, giáo dục con cái. Điều này thể hiện sự thiếu trách nhiệm của người mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con cái.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú; bị hại; người đại diện hợp pháp cho bị hại tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại cơ quan điều tra bà Võ Thị Bé T2, ông Võ Thành L1 đại diện cho bị hại T1 yêu cầu bị cáo bồi thường 100.000.000d là tiền bồi thường về sức khỏe tổn thất tình thần, danh dự nhân phẩm. Nhưng tại phiên tòa giữa bị cáo; bị hại và gia đình bị hại thống nhất số tiền bị cáo bồi thường cho bị hại là 30.000.000 đồng, đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại được chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện C có thu giữ 01 điện thoại di động Sasung Galaxy A11 màu đen đây là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu phát mãi nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

[1] Xử phạt: Bị cáo Trần Trí K 03 (ba) năm tù về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”.

Thời hạn tù tính từ ngày 02/7/2023.

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Tịch thu phát mãi nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhăn hiệu Samsung Galaxy A11, màu đen, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/12/2023 giữa cơ quan cảnh sát điều tra huyện C với Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

[3] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015.

BỊ cáo Trần Trí K phải bồi thường cho bị hại Võ Thị Mỹ T1 số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng). Do Võ Thị Mỹ T1 là người chưa thành niên nên số tiền này sẽ do ông Trương Thành L, bà Võ Thị Bé T2 (cha, mẹ ruột của em T1) đại diện nhận số tiền này.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Án phí chung bị cáo phải nộp là 1.700.000 đồng (một triệu bảy trăm nghìn đồng).

[5] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi số 78/2023/HS-ST

Số hiệu:78/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về