Bản án về tội giả mạo trong công tác số 27/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 07/03/2024 VỀ TỘI GIẢ MẠO TRONG CÔNG TÁC

Ngày 07 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/HSST-QĐ ngày 17 tháng 01 năm 2024; thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2024/TB-TA ngày 24 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/HSST-QĐ ngày 06 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Thị H, sinh năm 1986, tại Nam Định; nơi cư trú: Số nhà 158, tổ 5, phường MK, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Điều dưỡng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Thế H và bà Đoàn Thị H; chồng Trần Hoài N, sinh năm 1976; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007; con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2023 đến ngày 19/7/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”; hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”; có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Chị Vũ Thị Thanh N, sinh năm 1979; địa chỉ: Tổ 3, phường THĐ, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2/ Bà Vũ Thị Mai H, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ 6, phường LKT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3/ Ông Lê Trần Đ, sinh năm 1936; địa chỉ: Tổ 1, phường QT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

4/ Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ 12, phường HBT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

5/ Anh Nguyễn Hồng K, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn TTV, xã LT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

6/ Anh Phan Văn H, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ dân phố DN, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

7/ Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố DN, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

8/ Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 2, phường TT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

9/ Anh Trần Hoài N, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ 5, phường MK, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

10/ Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H; địa chỉ trụ sở: Số 151, đường Trường Chinh, tổ 6, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Thanh H, sinh 1977; chức vụ: Chủ tịch công ty kiêm giám đốc; địa chỉ: Số 140, đường TC, tổ 5, phường MK, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2017, ông Vũ Thanh H nhận chuyển nhượng toàn bộ cơ sở vật chất và nhân sự của phòng khám đa khoa H (nay là Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H). Do ông Vũ Thanh H không có trình độ về y tế nên đã thuê bác sỹ Trần Tuấn H đứng tên chủ hộ kinh doanh đồng thời là trưởng phòng khám H. Tháng 3/2021 bác sỹ Vũ Thị Mai H làm bác sỹ trưởng phòng khám thay thế bác sỹ H. Do ông Vũ Thanh H không trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động khám chữa bệnh tại phòng khám nên việc theo dõi các hoạt động của phòng khám, ông H giao cho Trần Thị H (nhân viên điều dưỡng) làm công việc hành chính, với nhiệm vụ tiếp nhận bệnh nhân, người đến khám, ghi chép các thông tin có liên quan và trực tiếp là người theo dõi, quản lý chấm công, theo dõi các khoản chi tiêu, thu nhập của phòng khám và hàng tháng báo cáo ông H. Khi người dân có nhu cầu khám sức khỏe để lấy giấy khám sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ, Trần Thị H là người tiếp nhận và ghi chép các thông tin lên giấy khám rồi hướng dẫn người dân đi đến các phòng bác sỹ chức năng để khám và ghi kết quả sau đó sẽ chuyển lại cho bác sỹ trưởng phòng khám kết luận. Một số thời điểm các bác sỹ khám ngoài giờ không có mặt tại phòng khám nhưng người dân đến có nhu cầu xin giấy khám sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ Trần Thị H vẫn tiếp nhận, lập giấy khám, sổ khám sức khỏe định kỳ, hỏi các thông tin của người đến khám, hướng dẫn người dân đi đến phòng chụp Xquang, làm xét nghiệm, sau đó H tự viết các thông tin kết quả khám vào sổ khám sức khỏe để cấp cho người đến khám. Cụ thể: ngày 01/12/2021, khi anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q đến làm thủ tục khám để xin cấp sổ khám sức khỏe định kỳ, H trực tiếp tiếp nhận, ghi các thông tin người khám trên các sổ khám sức khỏe định kỳ sau đó hỏi các thông tin lâm sàng như cân nặng, chiều cao, răng hàm mặt, da liễu…và hướng dẫn đến một số phòng chức năng khám, xét nghiệm và chụp X quang. Sau khi kiểm tra lâm sàng và cận lâm sàng H tự ý ký ra các chữ ký và đóng dấu tên của từng bác sỹ vào phần xác nhận của bác sỹ trên tất cả các mục khám. Cụ thể chữ ký mạo danh bác sỹ Vũ Thị Mai H tại mục họ tên chữ ký của bác sỹ khám nội khoa và phần người kết luận; chữ ký mạo danh bác sỹ Nguyễn Hồng K tại mục họ tên chữ ký của bác sỹ khám tai mũi họng; chữ ký mạo danh bác sỹ Lê Trần Đ tại mục họ tên chữ ký của bác sỹ khám cận lâm sàng; chữ ký mạo danh bác sỹ Nguyễn Thị Thanh H tại mục họ tên bác sỹ khám da liễu; chữ ký mạo danh bác sỹ Vũ Thị Thanh N tại mục họ tên chữ ký của bác sỹ khám mắt trên sổ khám sức khỏe định kỳ của anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q. Cuối cùng Trần Thị H dùng con dấu của phòng khám đa khoa H đóng lên chữ ký của bác sỹ phần kết luận và thu của mỗi người đến khám số tiền 80.000 đồng như các trường hợp khám thông thường đúng quy định.

* Vật chứng thu giữ:

- 03 sổ khám sức khỏe định kỳ mang tên Phan Văn H, Nguyễn Thị Y, Nguyễn Văn Q đều ghi ngày 01/12/2021; 01 sổ khám bệnh, bìa màu xanh; 01 sổ theo dõi khám bệnh bìa màu xanh; 01 sổ ghi chép bìa màu đen trắng; số tiền 240.000 đồng do anh Trần Hoài N (chồng của Trần Thị H) giao nộp.

Ngày 30/12/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam có bản kết luận số 771/KL-KTHS kết luận: “Chữ ký đứng tên BS. Vũ Thị Mai H, BS Vũ Thị Thanh N, BS Nguyễn Thị Thanh H, BS Nguyễn Hồng K, BS Lê Trần Đ dưới mục “Họ tên, chữ ký của bác sỹ”, “người kết luận” trên mẫu giám định ký hiệu A1, A2, A3 so với chữ ký của Trần Thị H trên mẫu so sánh ký hiệu M1 do cùng một người ký ra” Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS-PL ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Thị H về tội: “Giả mạo trong công tác” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 359 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trần Thị H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 359; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị H mức án 36 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng về tội “Giả mạo trong công tác”.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị áp dụng khoản 5 Điều 359; Điều 41 của Bộ luật Hình sự: Cấm Trần Thị H hành nghề khám bệnh, chữa bệnh từ 01 năm đến 02 năm.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình, đại diện theo pháp luật là ông Vũ Thanh H 01 sổ khám bệnh, bìa màu xanh; 01 sổ theo dõi khám bệnh bìa màu xanh; 01 sổ ghi chép bìa màu đen trắng.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần Thị H: Trả anh Phan Văn H và chị Nguyễn Thị Y mỗi người 80.000 đồng tiền sổ khám sức khỏe. Anh Nguyễn Văn Q không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị trả lại Trần Thị H số tiền 80.000 đồng.

Truy thu số tiền 240.000 đồng của Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình để sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Trần Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo không tranh luận, không bào chữa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Trần Hoài Nam có ý kiến: Sau khi sự việc xảy ra, Trần Thị H đã nhờ anh trả lại số tiền làm sổ khám bệnh định kỳ mà bị cáo đã thu của những người đến khám, số tiền anh đã nộp tại Cơ quan điều tra anh không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên toà bị cáo Trần Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 01/12/2021, tại Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình, Trần Thị H là nhân viên điều dưỡng kiêm nhân viên hành chính của phòng khám đa khoa H Bình khi tiếp nhận và lập các giấy tờ cho anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y, anh Nguyễn Văn Q đến khám bệnh để cấp sổ khám sức khỏe định kỳ, H đã lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao tự ý giả mạo các chữ ký của các bác sỹ trên 03 sổ khám sức khỏe định kỳ để cấp cho anh H, chị Y, anh Q và thu của mỗi người số tiền 80.000đ (ba người tổng là 240.000 đồng). Hành vi của bị cáo Trần Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Giả mạo trong công tác”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 359 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố và luận tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân; bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 240.000 đồng để khắc phục hậu quả; bố chồng bị cáo là người có công với cách mạng, được tặng thưởng huy chương kháng chiến và bị thương tật 51%, được hưởng chính sách như thương binh nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Đánh giá về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao để làm, cấp giấy tờ giả cụ thể là cấp sổ khám chữa bệnh định kỳ cho 03 người là anh H, anh Q và chị Y làm ảnh hưởng đến uy tín và các hoạt động khám chữa bệnh đúng đắn của Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ như đã phân tích, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú, có lý lịch rõ ràng, số tiền chiếm đoạt không lớn. Do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo và giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu, biết ăn năn hối cải.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi phạm tội, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là cấm hành nghề khám bệnh, chữa bệnh một thời gian nhất định theo quy định tại khoản 5 Điều 359; Điều 41 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Thị H đã tác động đến gia đình nộp số tiền 240.000 đồng để khắc phục hậu quả. Quá trình điều tra anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y yêu cầu Trần Thị H phải trả lại số tiền 80.000 đồng, bản thân bị cáo H cũng tự nguyện nộp số tiền để bồi thường. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bị cáo trả lại cho chị Y, anh H mỗi người 80.000 đồng. Anh Nguyễn Văn Q không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 80.000 đồng nên số tiền còn lại trả lại bị cáo.

[7] Về truy thu số tiền thu lời bất chính: Đối với số tiền 240.000 đồng Trần Thị H thu được do cấp sổ khám sức khỏe giả cho anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q. Số tiền này sau khi thu được H đưa vào Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình, đến nay anh H, chị Y và anh Q không yêu cầu phòng khám phải trả lại số tiền nên cần truy thu sung Ngân sách Nhà nước.

[8] Xử lý vật chứng:

- Đối với 03 (ba) sổ khám sức khỏe định kỳ cấp cho anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q là vật chứng của vụ án cần được lưu trong hồ sơ vụ án làm căn cứ giải quyết vụ án.

- Đối với 01 sổ khám bệnh, bìa màu xanh; 01 sổ theo dõi khám bệnh bìa màu xanh; 01 sổ ghi chép bìa màu đen trắng là sổ sách ghi chép theo dõi các hoạt động chung của Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội vì vậy cần trả lại cho Công ty.

[9] Về các tình tiết khác của vụ án:

- Đối với ông Vũ Thanh H là đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình. Ông H giao cho bị cáo Trần Thị H theo dõi, quản lý, không phải báo cáo hàng ngày các công việc của công ty. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã đấu tranh nhưng không có căn cứ thể hiện việc ông H chỉ đạo H giả mạo chữ ký của các bác sỹ trên sổ khám sức khỏe định kỳ. Bản thân ông H không thường xuyên có mặt tại phòng khám nên không biết việc chị H giả mạo chữ ký các bác sỹ trong các sổ khám sức khỏe để cấp cho khách hàng. Do đó ông H không đồng phạm với H là đúng theo quy định pháp luật.

- Đối với các bác sỹ Vũ Thị Mai H, Vũ Thị Thanh N, Lê Trần Đ, Nguyễn Thị Thanh H và Nguyễn Hồng K là những người có tên trên sổ khám sức khỏe đã bị Trần Thị H giả mạo chữ ký, các bác sỹ này đều có hợp đồng làm việc với Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình từ trước năm 2021, khi làm việc tại Công ty các bác sỹ đều có chứng chỉ hành nghề theo quy định. Bản thân các bác sỹ Vũ Thị Mai H, Vũ Thị Thanh N, Lê Trần Đ, Nguyễn Thị Thanh H và Nguyễn Hồng K không đồng ý cho Trần Thị H hay bất kỳ ai khác giả mạo chữ ký của mình trong công tác. Do vậy các bác sỹ trên không đồng phạm với hành vi giả mạo trong công tác của Trần Thị H.

- Đối với các anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q là những người có tên trong các sổ khám sức khỏe định kỳ, những người này có đến phòng khám đa khoa H Bình và được đưa đi các phòng để khám lâm sàng và chụp Xquang, xét nghiệm theo hướng dẫn của Trần Thị H. Việc khám và xin cấp sổ khám sức khỏe này vẫn nộp tiền như các trường hợp bình thường khác. Anh H, chị Y và anh Q không biết sổ khám sức khỏe định kỳ mà mình được nhận là giả. Do vậy hành vi của anh Phan Văn H, Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q không vi phạm pháp luật.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b, c khoản 2, khoản 5 Điều 359; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65; Điều 47; Điều 41 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Thị H phạm tội “Giả mạo trong công tác”. [2] Về hình phạt:

- Xử phạt Trần Thị H 36 (ba mươi sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 07/3/2024).

Giao bị cáo Trần Thị H cho Ủy ban nhân dân phường MK, thành phố PL, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Hình phạt bổ sung: Cấm Trần Thị H hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong thời hạn 01 (một) năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Buộc Trần Thị H phải trả cho chị Nguyễn Thị Y, anh Phan Văn H mỗi người là 80.000đ (tám mươi nghìn đồng). Trả lại Trần Thị H số tiền 80.000 đồng. Số tiền này đã được nộp tại kho bạc Nhà nước theo ủy nhiệm chi số 78 ngày 28/12/2023.

[4] Về truy thu số tiền thu lời bất chính: Truy thu của Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

[5] Xử lý vật chứng:

- Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 03 (ba) sổ khám sức khỏe định kỳ cấp cho anh Phan Văn H, chị Nguyễn Thị Y và anh Nguyễn Văn Q làm căn cứ giải quyết vụ án.

- Trả lại cho Công ty TNHH phòng khám đa khoa y dược H Bình: 01 sổ khám bệnh, bìa màu xanh; 01 sổ theo dõi khám bệnh bìa màu xanh; 01 sổ ghi chép bìa màu đen trắng (do Tòa án trực tiếp giao trả cho Công ty).

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Thị H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giả mạo trong công tác số 27/2024/HS-ST

Số hiệu:27/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về