Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 95/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 95/2023/HS-PT NGÀY 14/04/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 14 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với Nguyễn Quốc T và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HSST ngày 06/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Quốc T (tên gọi khác: Cu Lửa); sinh năm: 1997 tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký thường trú: 1/172A NTM, xã TTN, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 22 đường số CM, ấp G, xã TPT, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông NTV và bà LTB; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

2. Nguyễn Duy K (tên gọi khác: Bin); sinh năm: 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Ấp BS, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; không rõ họ tên cha, con bà NTL; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

3. Từ Anh T1 (tên gọi khác: Chạy); sinh năm: 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Số 124/11 đường CB, tổ C, ấp BĐ, xã TPT, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Ấp C, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông TVT (chết) và bà NTKC; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

4. Phan Tấn T2; sinh năm: 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số 110/5/1B đường TL 2, ấp XĐ, xã TPT, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông PTH và bà NTBN; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Ngoài ra, vụ án còn có bị cáo Huỳnh Phúc T3 không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/01/2022, ông Lê Tấn V đến dự tiệc thôi nôi tại ấp Chánh, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại buổi tiệc Nguyễn Quốc T và Nguyễn Duy K nhìn ông V “thấy ghét”. Đến 22 giờ 00 phút cùng ngày, K rủ T đến phòng trọ của ông V (tại số 19/4A đường 10 ấp Bàu Sim, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi) để đánh V thì T đồng ý. Tại phòng trọ của ông V, T và K dùng tay đánh ông V thì bất ngờ ông V dùng 01 con dao dài 25cm đâm trúng vai phải của T, tay trái của K gây thương tích nhẹ. T và K nhặt đá gần đó ném làm bể kính cửa phòng của V rồi bỏ đi. Đến 23 giờ 00 phút cùng ngày, K và T quay lại phòng trọ của V nhưng không thấy V thì bỏ về.

Đến khoảng 17 giờ 00 phút ngày 09/01/2022; Từ Anh T1 rủ K, T và Huỳnh Phúc T3 đến nhà của T1 tại ấp C, xã TTH, huyện CC để uống bia. Tại đây, T kể chuyện bị V dùng dao đâm thương tích nhẹ. Sau đó, T rủ T3, T1, K đi đánh lại V thì cả nhóm đồng ý. Lúc này, T lấy điện thoại di động gọi cho Phan Tấn T2 lên nhà T1 để chở T đi kiếm V đánh trả thù thì T2 đồng ý. Đến 20 giờ 00 phút cùng ngày, T1 điều khiển xe gắn máy hiệu Vision màu trắng biển số 59Y3- 640.68 chở K và T3; T2 điều khiển xe gắn máy hiệu Vision màu đỏ biển số 59Y2-732.47 chở T, tất cả đến phòng trọ của V không mang hung khí. Khi đến gần phòng trọ của V thì T, T2, K, T3, T1 thấy V cầm 02 con dao trên tay khiêu khích nên tất cả quay về. T2 chở T về nhà lấy 02 cây chĩa T để nhà T2, còn T1 chở K, T3 quay về nhà T3 lấy 01 cây rựa, rồi cả 05 quay lại phòng trọ của V để đánh V.

Khi đến nơi, T1 và T2 đứng ngoài xe cảnh giới, T và K mỗi người cầm 01 cây chĩa dài 2,3m, T3 cầm cây rựa dài 1,3m và đi vào bên trong la lối, lớn tiếng chửi bới gọi V ra. V không chịu ra ngoài nên T, K, T3 đâm và chém làm hư hỏng cửa chính phòng trọ của V. Khi cả nhóm chuẩn bị ra về thì T3 cầm rựa đi ra ngoài tiếp tục chém làm hư hỏng phần nhựa trên đầu xe gắn máy biển số 63B6-147.65 của ông Đào Chí N đang dựng trước cửa cạnh phòng của V.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS ngày 09/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi kết luận: 02 cửa phòng trọ có giá trị là 1.400.000 đồng; 01 ốp nhựa bảo vệ đồng hồ Kilomet và 01 kính chiếu hậu trái của xe gắn máy hiệu Honda RSX có giá trị 170.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại là 1.570.000 đồng.

Nguyễn Duy K và Nguyễn Quốc T từ chối giám định tỷ lệ thương tật, không yêu cầu xử lý hình sự đối với V về hành vi “Cố ý gây thương tích”.

Ngày 18/5/2022, Ủy bản nhân dân xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi có văn bản số 936/VB-UBND trả lời xác nhận như sau: Những nơi các đối tượng đi qua thuộc khu dân cư nông thôn. Hành vi ngày 08 và 09/01/2022 của các đối tượng trên có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn xã Tân Thông Hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân sinh sống ở khu vực trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HSST ngày 06/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Tấn T2 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Từ Anh T1 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với Huỳnh Phúc T3, xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 11/01/2023, bị cáo Nguyễn Quốc T, Phan Tấn T2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 16/01/2023, bị cáo Nguyễn Duy K, Từ Anh T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm nêu quan điểm kết luận cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” là đúng người, đúng tội. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, chỉ vì nhìn ông Lê Tấn V thấy ghét mà các bị cáo rủ nhau tới nhà đánh ông V, khi đánh không được thì đập phá nhà người khác nên mức hình phạt cấp sơ thẩm nêu là phù hợp, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên hợp lệ.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 08/01/2022, tại phòng trọ số 19/4A đường M ấp BS, xã TTH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Lê Tấn V thuê trọ, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Duy K có hành vi gây rối, la hét, chửi bới, đánh nhau bằng tay và dùng gạch đá ném làm bể cửa kính phòng trọ của ông Lê Tấn V.

Đến khoảng 20 giờ 00 phút ngày 09/01/2022, Từ Anh T1 và Phan Tấn T2 đứng cảnh giới để T và K mỗi người cầm 01 cây chĩa, Huỳnh Phúc T3 cầm 01 cây rựa chém vào cửa phòng ông V. Ngoài ra, T3 còn dùng dao chặt vào đầu xe gắn máy của ông Đào Chí N đang dựng trước phòng.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, về xác định tư cách tham gia tố tụng của các ông Lê Tấn V, Đào Chí N và Đặng Văn L, Hội đồng xét xử đánh giá như sau: Khách thể của tội phạm do các bị cáo xâm hại là trật tự công cộng đồng thời tài sản bị thiệt hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, các ông V, N và L không có yêu cầu bồi thường, do đó Tòa cấp sơ thẩm xác định họ là bị hại là chưa chính xác cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm.

Về kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng và đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định mức hình phạt như trên là thỏa đáng. Mặc dù tại phiên tòa các bị cáo trình bày bản thân là lao động chính, phạm tội lần đầu tuy nhiên xét hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Quốc T, Nguyễn Duy K, Phan Tấn T2 và Từ Anh T1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc T, Nguyễn Duy K, Phan Tấn T2 và Từ Anh T1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17;

Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Tấn T2 02 (năm) 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17;

Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Từ Anh T1 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

Mỗi bị cáo nộp 200.000 án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 95/2023/HS-PT

Số hiệu:95/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về