Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 948/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 948/2023/HS-PT NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 778/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Võ A Di D do có kháng cáo của bị cáo Võ A D1 Da đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS- ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Võ A Di D, sinh năm 1984, tại Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị G; Bị cáo có vợ: Lê Tú T (đã ly hôn) và có 01 người con; Tiền sự: không; Tiền án: 01 lần (Ngày 26/10/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 6 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 262/2012/HS-ST).

Nhân thân của bị cáo: Ngày 21/01/2002, Bị Ủy ban nhân dân tỉnh T ra Quyết định số 26/QĐ đưa vào cơ sở giáo giáo dục bắt buộc 12 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong ngày 03/5/2003. Ngày 17/6/2004, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 48/HS-ST. Ngày 25/9/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 64/2006/HS-ST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/12/2022, chuyến tạm giam ngày 23/12/2022 đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh T (có mặt).

Các bị cáo Ngô Văn Vũ L, Ung Hoàng N, Nguyễn Trường G1 có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Thông báo về việc rút kháng cáo số 60/2023/TB-TA ngày 21/11/2023 theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo, bị hại khác nhưng không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 10 phút ngày 13/12/2022, tại quán N2, tọa lạc ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang (quán do chị Trần Thị N1 làm chủ), có Lê Hoài P, sinh năm 1995 (Phong Mắn), cư trú: ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Võ A Di D; Ưng Hoàng N; Nguyễn Bảo D2 và Nguyễn Trường G1 đang ngồi uống bia tại Phòng số 6, còn tại Phòng số 9 có Ngô Văn Vũ L; Đỗ Tiến H và Trần Hoàng T1 cũng đang ngồi uống bia. Trong lúc uống bia, T1 đi vệ sinh thì gặp Di D, cả hai xảy ra mâu thuẫn cự cãi với nhau nên T1 vào phòng kể cho L và H nghe. Một lúc sau, L đi vệ sinh thì N và D2 cầm ly bia bằng thủy tinh đến Phòng số 9, N ném ly bia vào phòng. Tiếp tục, N cùng D2 và G1 đập cửa xông vào nhà vệ sinh, D2 dùng ly bia đập vào đầu L, còn N và G1 dùng tay đánh L. Bị đánh, L bỏ chạy vào Phòng số 9 kêu H và T1 về. Khi đi ra xe ô tô biển số 60A-962.XX của H đang đậu phía trước quán, L kêu H mở cửa xe, L lên xe ngồi cạnh ghế lái, lấy một con dao thái lan trong cốp xe, giấu vào lưng quần. L xuống xe, đi trở vào quán, khi đến sân quán thì gặp nhóm của P đang đi ra, L dùng tay phải rút dao đâm vào người của P. Lúc này, Di D và D2 vừa đi đến, thì cũng bị L dùng dao đâm nhiều nhát vào người, bị tấn công, Di D và D2 cũng dùng tay, dùng gạch đánh trả lại L. Sự việc đánh nhau kéo dài khoảng 15 phút, gây mất an ninh trật tự công cộng tại quán N2, hậu quả làm P bị tử vong trên đường đưa đi cấp cứu, còn L, D2 và Di D bị thương nhẹ.

Sau khi đánh nhau xong, L chạy ra xe ô tô biển số 60A-962XX do H và T1 đậu đợi. H điều khiển xe chở L và T1 về nhà trọ của ông Nguyễn Hoàng V, ở ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang. L đi ra phía sau nhà trọ ném con dao xuống sông M thuộc huyện C, tỉnh Tiền Giang phi tang. Mặc dù biết rõ việc L dùng dao đâm, đánh người khác gây thương vong tại quán N3, nhưng H và T1 không tố giác hành vi phạm tội, nơi lẩn trốn của L đến cơ quan công an, T1 đi về nhà ngủ, còn L và Hoàng ngủ ở tại nhà trọ, đến 5 giờ ngày 14/12/2022 thì bị Cơ quan Công an bắt giữ.

Biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 04 giờ ngày 14/12/2022 ghi nhận:

“Hiện trường nơi xảy ra sự việc tại quán N2 tọa lạc ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang có các hướng được xác định như sau:

- Hướng Đông tiếp giáp khu đất trống và nhà dân, hướng tây tiếp giáp quán M, hướng nam tiếp giáp khu đất trồng cây, hướng bắc tiếp giáp QL 1 chạy theo hướng đông tây.

Quán có cổng ra vào quay về hướng bắc, dạng cửa lùa khung sắt bằng lưới kèm B40, cổng có KT(2,7x2,4)m vào bên trong, ở hướng đông là lối đi bằng bê tông rộng 2,4m và hướng tây là nhà ở.

- Trên đường bêtông cách cổng ra vào về hướng nam 5,8m phát hiện có nhiều mảnh vỡ thủy tinh và gạch, có nhiều kích thước kéo dài 7,1 cm; nằm ngổn ngang trên mặt đường, mảnh lớn nhất có KT(18x8x8)cm và nhiều mảnh nhỏ ly ti (ký hiệu 1), cách vùng mảnh vỡ này về hướng nam 8,6m; trên mặt đường bê tông phát hiện vùng vết màu đỏ nghi máu thứ nhất có diện rộng (1,7x1,1); dạng nhỏ giọt phun tia quệt, không liên tục, màu nâu đỏ, còn mới, vết lớn nhất có KT (40x27)cm, vết nhỏ nhất 0,5cm.

Trong vùng vết màu đỏ nghi máu này có một chiếc dép trái màu đen mũi dép quay về hướng tây nam có KT(27x10x81)cm; cách dép về hướng đông nam 90cm trên nền đất là chiếc dép phải, có cùng kích thước đặc điểm như chiếc dép trái (ký hiệu 2).

Hướng đông vết màu đỏ nghi máu thứ nhất, sát hàng rào lưới B40, có một bàn chữ nhật, khung kim loại có KT(1,8x0,8x0,7)cm. Trên mặt bàn ở hướng nam có vùng vết màu đỏ nghi máu thứ 2 dạng vũng, có KT(1,2x0,9)m màu đỏ còn mới. Trên vùng vết màu đỏ nghi máu này có một nón kết màu xám đen, ở sát thành bàn hướng đông, cách thành bàn hướng nam 60cm, nón phía trước có hình con gà có nhiều màu. Trên nón có dính vệt màu đỏ nghi máu có KT(26x20)cm (ký hiệu 3).

Cách vùng vết màu đỏ nghi máu thứ nhất về hướng tây nam 1,3m sát tường nhà ở có một khăn màu vàng có KT(75x32)cm; có dính nhiều vết màu đỏ nghi máu, không liên tục.

- Cách bàn chữ nhật về hướng nam 80cm, nằm trên đường tiếp giáp giữa đường bê tông và đất là một cục gạch có KT(18x8x8)cm trên cục gạch có dính nhiều vết màu đỏ nghi máu có KT(4x3)cm (ký hiệu 4).

Từ cục gạch này về hướng tây nam trên nền bê tông 2,1m phát hiện vùng vết màu đỏ nghi máu thứ 3 có diện rộng KT(1,8x0,4)m, kéo dài về hướng nam, dạng nhỏ giọt, màu nâu đỏ còn mới, không liên tục, vét lớn nhất có KT(5x4)cm, vết nhỏ nhất 0,5cm (ký hiệu 5).

Tiếp giáp với lối đi bằng bê tông này ở hướng nam là khu vực chồi lá, khu nhà ở của nhân viên và nhà vệ sinh”.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 375/2022/TgT ngày 14/12/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tụ máu dưới da cơ ngực trái, vết thương thủng vào liên sườn IV-V bên trái. Phổi phải và trái sung huyết. Khoang màng phổi trái chứa khoảng 1000ml máu loãng lẫn máu cục. Phổi trái xẹp. Tụ máu mặt trước trung thất. Thủng bao màng tim bên trái, sâu vào tim. Máu tụ khoang màng tim khoảng 200ml máu cục lẫn máu loãng, vết thương thủng cơ tim vào buồng tim bên trái. Buồng tâm thất trái có ít máu loãng, vết thương xuyên cơ tim vào buồng tim tâm thất trái.

2. Kết luận: Nguyên nhân tử vong tử thi Lê Hoài P: mất máu cấp do vết thương thấu vào buồng tâm thất trái do vật sắc nhọn”.

Vật chứng thu giữ trong vụ án này là: Thu giữ khi khám nghiệm hiện trường: 02 đôi dép, 03 cái nón kết. 01 số mảnh vỡ thủy tinh (mảnh ly uống bia). +01 khẩu trang y tế, 01 khăn màu vàng. 01 cục gạch ống. 01 quần jean sọt màu xanh, 01 áo thun ngán tay cổ tròn màu đen. 02 con dao lưỡi bằng kim loại màu trắng, cán bằng nhựa màu đen, có chữ K. 01 con dao lưỡi bằng kim loại màu trắng, cán bằng nhựa màu xanh. 01 ống tuýp bằng kim loại. 02 điện thoại di động (01 hiệu S1 màu đen, 01 hiệu Redmi màu xanh). 01 xe ô tô biển số 60A-962.XX, số máy 4A91KAB01XX, số khung MK2LRNC1WLN0208XX mang tên Đỗ Tiến H1 (cha ruột H), sinh năm 1957, cư trú: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai và tiền Việt Nam là 200.000.000 đồng.

Xử lý vật chứng: Ngày 07/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 xe ô tô biển số kiểm soát 60A-962.XX, số máy 4A91KAB01XX, số khung MK2LRNC1WLN0208XX; tiền Việt Nam là 200.000.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Redmi màu xanh (thu giữ của Đỗ Tiến H) cho ông Đỗ Tiến H1 và trao trả cho đại diện gia đình Ngô Văn Vũ L là Nguyễn Thị Kim L1 01 điện thoại hiệu S1.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị hại Lê Hoài P là bà Nguyễn Thị L2 (mẹ P) yêu cầu bị cáo Ngô Văn Vũ L bồi thường chi phí mai táng là 235.000.000 đồng. Hiện bị cáo chưa bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSTG-P2 ngày 04 tháng 7 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Ngô Văn Vũ L về tội “Giết người” quy định tại điểm n, p khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo Võ A Di D, Nguyễn Bảo D2, Nguyễn Trường G1 và Ung Hoàng N về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Đỗ Tiến H, Trần Hoàng T1 về tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật Hình sự Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn Vũ L phạm tội “Giết người”; Các bị cáo Võ A Di D, Ung Hoàng N, Nguyễn Bảo D2 và Nguyễn Trường G1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”; Các bị cáo Đỗ Tiến H, Trần Hoàng T1 phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

2. Về hình phạt:

2.1. Căn cứ điểm n, p khoản 1 Điều 123, Điều 39, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn Vũ Linh T2 chung thân. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

2.2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ A D1 Da 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

Xử phạt bị cáo Ung Hoàng N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

2.3. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo D2 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G1 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

2.4. Căn cứ khoản 1 Điều 390, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Tiến H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

Tổng hợp hình phạt với bản án số: 65/2023/HS-ST, ngày 08-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Đã xử phạt Đỗ Tiến H 01 năm 02 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, buộc bị cáo H phải chấp hành tổng hợp hình phạt chung là 01 năm 08 tháng tù.

Buộc bị cáo Đỗ Tiến H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

2.5. Căn cứ khoản 1 Điều 390, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng T1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngày 12/9/2023, bị cáo Ngô Văn Vũ L có đơn kháng cáo; Ngày 13/9/2023, các bị cáo Ung Hoàng N, Nguyễn Trường G1, Võ A Di D có đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, ngày 19/9/2023, bị cáo Ung Hoàng N có đơn rút lại toàn bộ kháng cáo. Ngày 25/9/2023, bị cáo Nguyễn Trường G1 có đơn rút lại toàn bộ kháng cáo. Ngày 07/11/2023, bị cáo Ngô Văn Vũ L có đơn rút lại toàn bộ kháng cáo. Ngày 21/11/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Thông báo số 60/2023/TB-TA về việc rút kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Võ A Di D vẫn giữ nguyên kháng cáo, cho rằng cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, với lý do do nhóm của Ngô Văn Vũ L đánh trước nên bị cáo chống đỡ và bản thân bị cáo cũng bị thương tích.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 9 năm 2023 bị cáo Võ A Di D có đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2.1] Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Bản cáo trạng đã truy tố và bản án sơ thẩm đã quy kết, trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định nội dung vụ án như sau:

Vào khoảng 22 giờ 10 phút ngày 13/12/2022, tại quán N2 tọa lạc ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, do có mâu thuẫn trong lúc đi vệ sinh, nên Ung Hoàng N, Nguyễn Bảo D2 và Nguyễn Trường G1 xông vào nhà vệ sinh đánh Ngô Văn Vũ L, trong đó N có dùng 01 ly thủy tinh ném vào phòng của L và D2 dùng ly thủy tinh đánh trúng đầu L. Bị đánh, L đi ra xe ô tô 60A-962.XX lấy 01 con dao thái lan, đi vào quán, dùng dao đâm trúng ngực trái của Lê Hoài P, làm P bị tử vong do mất máu cấp, vết thương thấu vào buồng tâm thất trái do vật sắc nhọn. Sau đó, L tiếp tục dùng dao, còn Di D, D2 dùng gạch đánh nhau, hậu quả Di D, D2 và L bị thương tích nhẹ, vụ việc xảy ra đã gây mất an ninh trật tự tại quán.

[2.2] Đối chiếu với trường hợp phạm tội của bị cáo Di D, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hành vi của bị cáo Võ A Di D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 318 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Võ A Di D là nghiêm trọng, bị cáo ý thức được khu vực đánh nhau là quán ăn uống, hát karaoke là nơi công cộng tập trung đông người nhưng vẫn bất chấp cố ý thực hiện việc đánh nhau, la hét, rượt đuổi gây náo loạn, hoang mang lo sợ trong nhân dân nơi xảy ra vụ án, xâm phạm đến trật tự chung của xã hội. Hành vi này gây hoang mang lo sợ, bất bình trong nhân dân, làm mất trật tự an ninh tại địa phương, vì thế cần thiết phải xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có biện pháp giáo dục, răn đe bị cáo đồng thời làm gương cho người khác.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Nguyên nhân sự việc xảy ra là do mâu thuẫn giữa Trần Hoàng T1 và bị cáo gây ra. Sau đó, băng nhóm của bị cáo xông vào nhóm của T1, L tấn công trước dẫn đến Ngô Văn Vũ L dùng dao đâm Lê Hoài P (nhóm của bị cáo Võ A Di D) tử vong. Sau đó, bị cáo D còn tham gia đánh nhau với nhóm của L, T1 làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Như vậy, trong vụ án này, bị cáo Di D là người thực hiện tích cực, xuyên suốt. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án chưa được xoá án tích nay lại tiếp tục tái phạm. Tòa cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo với mức án 05 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là phù hợp với quy định của pháp luật. Trong đó, đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ gì đặc biệt mới và cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo với mức án như trên là không nặng nên không có căn cứ để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về án phí Hình sự phúc thẩm: Bị cáo Võ A Di D phải chịu án phí theo luật định.

[6] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Võ A Di D về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn Vũ L, Ung Hoàng N, Nguyễn Trường G1.

Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 45/2023/HS-ST ngày 06/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ A Di D phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, Điều 17, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ A D1 Da 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/12/2022.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 2 Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Võ A D1 Da chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 948/2023/HS-PT

Số hiệu:948/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vào khoảng 22 giờ 10 phút ngày 13/12/2022, tại quán N2 ở tỉnh Tiền Giang, nhóm của Võ A Di D và nhóm của Ngô Văn Vũ L xảy ra mâu thuẫn. Nhóm của Di D đã tấn công L trước, trong đó có người dùng ly thủy tinh đánh vào đầu L.

Bị đánh, L đã lấy dao từ xe ô tô và quay lại quán. L dùng dao đâm trúng ngực trái của Lê Hoài P (thuộc nhóm Di D), khiến P tử vong do mất máu cấp. Sau đó, L tiếp tục dùng dao tấn công, trong khi Di D và Nguyễn Bảo D2 dùng gạch đánh trả, gây thương tích nhẹ cho nhau.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Võ A Di D 5 năm tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Di D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng Tòa phúc thẩm không chấp nhận.

Hội đồng xét xử nhận định hành vi của Di D là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo còn có nhân thân xấu, đã có tiền án chưa được xóa án tích. Do đó, Tòa phúc thẩm giữ nguyên mức án 5 năm tù đối với Di D.