Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 74/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 74/2022/HS-PT NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2022/TLPT-HS ngày 18 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Thái Văn D, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS-ST ngày 20/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

* Bị cáo có kháng cáo: Thái Văn D, sinh năm 1979 tại huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu; nơi cư trú: ấp MK, xã MT, huyện UMT, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái Văn Bấu, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị Lệ, sinh năm 1957; vợ: Lê Thị Nhung, sinh năm 1978; con có 02 người, sinh năm 2000 và năm 2007; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 28/9/2021 được tại ngoại đến nay (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 22/9/2021, bà Lê Thị Nhung và người phụ nữ tên Oanh trong lúc buôn bán tại chợ Minh Thuận có xảy ra mâu thuẫn, cự cải với nhau. Lúc này, bà Oanh dùng gạch và móc sắt (dùng để móc thịt) ném vào sạp bán hàng của bà Nhung nhưng không trúng ai. Sau đó, chồng của bà Nhung là Thái Văn D gọi điện thoại cho Công an xã Minh Thuận trình báo sự việc.

Đến khoảng 18 giờ 20 phút cùng ngày, sau khi nhậu xong Thái Văn D đến trụ sở Công an xã Minh Thuận để làm rõ nội dung sự việc Công an xã Minh 1 Thuận giải quyết vụ việc bà Oanh dùng gạch và móc sắt ném vào sạp bán hàng của gia đình D. Khi đến trụ sở Công an xã Minh Thuận, Thái Văn D gặp ông Trần Phương Hải, Phó Trưởng Công an xã và ông Châu Hoàng Nhật, Công an viên đang trực tại trụ sở làm việc. Khi vào trụ sở làm việc, do bực tức vì cho rằng đã trình báo sự việc đến lực lượng chức năng nhưng không thấy ai giải quyết nên D đã dùng lời nói thô tục, chửi thề lớn tiếng đối với lực lượng Công an xã đang làm nhiệm vụ. Khi ngồi tại bàn làm việc, D dùng tay đập lên bàn làm việc làm hồ sơ để trên bàn rơi xuống nền gạch. Sau đó, D cầm lấy chai nước khử khuẩn để trên bàn đập xuống bàn, rồi ném chai khử khuẩn xuống nền gạch. Dây tiếp tục lấy chiếc kẹp bấm giấy để trên bàn ném xuống nền gạch. Lúc này, Ông Hải yêu cầu D trình bày rõ nội dung sự việc, yêu cầu Dây không được gây rối tại trụ sở Công an xã. D tiếp tục dùng lời nói thô tục la hét, chửi lớn tiếng gây mất an ninh trật tự tại trụ sở Công an xã. Ông Hải thấy D đã có rượu trong người nên yêu cầu D về nhà, sáng hôm sau đến trụ sở Công an xã làm việc. Lúc này, vợ của D là bà Nhung đến kêu D đi về, D không đồng ý mà tiếp tục gây rối, dùng lời nói thô tục la hét, chửi lớn tiếng. Ông Hải tiếp tục kêu D về nhưng D không đồng ý mà còn xô đẩy ông Hải. Ông Hải khống chế D nhưng D vùng vẫy ra được và nhìn thấy ông Nhật đang dùng điện thoại quay video sự việc đang diễn ra nên D đuổi theo giật điện thoại của ông Nhật làm điện thoại rơi xuống đất. Lúc này, lực lượng Công an xã Minh Thuận khống chế bắt giữ D và giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U Minh Thượng giải quyết.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 (một) chiếc bấm kim (bấm giấy), chiều dài 10,7cm, phía bên ngoài ốp nhựa màu xanh, phía bên trong làm bằng kim loại màu trắng.

- 01 (một) chai nhựa màu trắng, chiều dài 13,5cm, bên ngoài có dáng tem có chữ “KHÁNG KHUẨN”, “ANTI-BACTERIA”, “KOSMO”, “Dung dịch RỬA TAY INSTANTHAND”, loại “500ml”.

- 01 (một) cái nắp nhựa màu xanh, chiều dài 7,7cm, nơi rộng nhất 2,5cm.

- 03 đoạn video có độ dài lần lượt là 04 phút 05 giây, 04 phút 33 giây, 17 phút 01 giây và 02 đoạn ghi âm có độ dài lần lượt là 40 giây, 21 giây, tất cả đều được lưu trong hồ sơ vụ án.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2021/HS-ST, ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Thái Văn D phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 318; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Thái Văn D 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 28/9/2021.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/12/2021, bị cáo Thái Văn D có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Thái Văn D thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự là đúng quy định và giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nội dung kháng cáo của bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm; áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Thái Văn Dây 3 (ba) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo Thái Văn D về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Khoảng 18 giờ 20 phút ngày 22/9/2021, sau khi nhậu xong, Thái Văn D đến trụ sở Công an xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang để làm rõ nội dung sự việc Công an xã Minh Thuận giải quyết vụ việc bà Oanh dùng gạch và móc sắt ném vào sạp bán hàng của gia đình D. Tại trụ sở Công an xã Minh Thuận, mặc dù đã được người có thẩm quyền của Công an xã giải thích, yêu cầu trình bày sự việc và đề nghị về hôm sau đến làm việc nhưng D không chấp hành mà lại dùng lời nói thô tục, chửi thề, la hét lớn tiếng đối với lực lượng Công an xã đang làm nhiệm vụ. Ngoài ra D còn có hành vi dùng tay đập lên bàn làm việc làm hồ sơ để trên bàn rơi xuống nền gạch; cầm lấy chai nước khử khuẩn để trên bàn đập xuống bàn, rồi ném chai khử khuẩn xuống nền gạch; lấy chiếc kẹp bấm giấy để trên bàn ném xuống nền gạch; xô đẩy, giật điện thoại của Công an viên đang làm nhiệm vụ…Hành vi bị cáo D thực hiện đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Tòa án sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo D về tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo D là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, thể hiện sự hung hăng, bất chấp kỷ cương pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Việc cho bị cáo hưởng án treo sẽ không đủ tác dụng răn đe, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và đấu tranh phòng ngừa tội phạm, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo của bị cáo. Tuy nhiên cũng thấy rằng, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (điểm b, i, s) và không có tình tiết tăng nặng, nhưng cấp sơ thẩm phạt bị cáo mức án đến 6 tháng tù trong khung hình phạt từ 3 tháng đến 2 năm quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự là quá nghiêm khắc đối với bị cáo, chưa tương xứng với các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt tù cho bị cáo.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Thái Văn D, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST, ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Thái Văn D 3 (ba) tháng tù về tội“Gây rối trật tự công cộng”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021 đến ngày 28/9/2021.

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Thái Văn D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST, ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 74/2022/HS-PT

Số hiệu:74/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về