Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 74/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 74/2022/HS-PT NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 12 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 31/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Dương Phương T và bị cáo Nguyễn Minh L do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dương Phương T và bị cáo Nguyễn Minh L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Dương Phương T, sinh ngày 12 tháng 4 năm 2002, tại Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp B, xã N, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: học sinh; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ và bà: Dương Kim M; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, “có mặt”.

Nguyễn Minh L (T1), sinh ngày 19 tháng 7 năm 1999, tại Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp T2, xã N, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ1 và bà: Đặng Thị U; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, “có mặt”.

- Ngoài ra, bản án còn có 11 bị cáo, 02 bị hại và 04 người làm chứng không có kháng cáo.

- Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 05/9/2020, bị cáo Huỳnh Công D nhờ bị cáo Nguyễn Dương Phương T chở đi tìm vợ D là Nguyễn Thị Kim T3. Trên Quốc lộ 50 đoạn thuộc địa phận xã Y, huyện G thì D nhìn thấy Trần Quang T4 chở T3 chạy từ hướng thị xã G1 về huyện G nên D chặn xe lại. Do nghi ngờ T4 có quan hệ tình cảm với T3 nên D cự cãi với T4 và người đi cùng là Lê Đức D1. Sau đó, T điều khiển xe chở D, T3 về.

Khi về đến địa phận xã B1, huyện G (Quốc lộ 50, đối diện quán cà phê “L1”) thì D kêu T dừng xe. D chia sẻ việc mâu thuẫn với T4, Đức D1 lên Facebook; đồng thời D điện thoại cho nhiều bạn bè xin số điện thoại của Đức D1, T4. Bị cáo T thì điện thoại cho Nguyễn Thượng N1 nói lại việc mâu thuẫn của D. Lúc này, Thượng N1 đang nhậu cùng với các bị cáo Phan Tuấn C, Nguyễn Hoài N2, Nguyễn Trung Công Q, Đặng Công S, Lê Minh T5 và các em Trần Thanh P, Nguyễn Hoài N3. Thượng N1 nói lại sự việc với mọi người và cả nhóm quyết định cùng đến gặp D để hỏi chuyện. Khi nhóm đến, D kể lại mâu thuẫn giữa D với Đức D1, T4; đồng thời D vẫn tiếp tục liên hệ nhiều người để xin số điện thoại của Đức D1, T4 nhưng không được. Tiếp theo, tất cả kéo đến tập trung tại đầu đường vào nhà của bị cáo Ngô Lưu Gia B2 thuộc khu phố 5, thị trấn V. Tại đây, B2 xin được số điện thoại của Đức D1 cung cấp cho D điện thoại hẹn gặp nhau tại khu vực ngã ba T6 nói chuyện giải quyết mâu thuẫn.

D nhờ Thượng N1 điều khiển xe mô tô đưa T3 về nhà. Sau khi Thượng N1 chở T3 đi khỏi thì D nói với nhóm là sẽ đến ngã ba T6 gặp Đức D1, T4 để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn. Lúc này, các bị cáo Lê Hoàng Đ2, Nguyễn Minh L và bị can Võ Duy T7 (C1) cũng đến tập trung. Do những người trong nhóm cho rằng Đức D1, T4 rất côn đồ nếu D một mình đến gặp có thể sẽ bị đánh nên quyết định đi cùng D. Cả nhóm thống nhất là D đến gặp Đức D1, T4 để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn, nếu phát sinh đánh nhau thì những người còn lại mới hỗ trợ D đánh lại. Các bị cáo cũng chuẩn bị hung khí để đánh nhau; B2 điện thoại kêu bị cáo Lê Tấn T8 đem hung khí đến trước nhà B2 nên T8 mang một bao hung khí không rõ số lượng đến tập trung cùng nhóm; Quyết kêu P chở đi lấy 01 dao tự chế, 01 bình xịt hơi cay; bị can Võ Duy T7 cũng đem đến 01 dao tự chế. Sau khi đã chuẩn bị xong thì tất cả xuất phát đi, cụ thể:

- T chở D, Đông bằng xe mô tô Click biển số 63B8-600.93 (xe của Nguyễn Thị Ngọc N4); Đông cầm 01 dao tự chế dài khoảng 1,2m.

- B2 chở C, T8 xe bằng mô tô Vario 63B5-511.77 (xe của Nguyễn Minh T9); T8 cầm 02 dao tự chế dài khoảng 60cm và 1,2m.

- L chở T7 bằng xe mô tô Raider biển số 63B5-417.00 (xe của L); T7 cầm 01 dao tự chế.

- N2 chở S bằng xe mô tô Sirius biển số 63B5-074.69 (xe của Nguyễn Thượng P1); S cầm một ống tuýp sắt có đầu nhọn dài khoảng 1,2m và N2 cầm 01 dao tự chế.

- T5 chở Hoài N3 bằng xe mô tô Dream biển số 63S - 0264 (xe của Nguyễn Ngọc L3); Hoài N3 cầm 01 dao tự chế dài khoảng 1,2m.

- P chở Q bằng xe mô tô Sirius biển số 63B4-410.81 (xe của Phạm Thị C2); Q cầm 01 dao tự chế dài khoảng 1,1m cùng 01 bình xịt hơi cay.

Các bị cáo điều khiển xe di chuyển thành nhóm trên Quốc lộ 50 và các tuyến đường thuộc nội ô thị trấn V, huyện G, sau đó theo tuyến Huyện lộ 16 đến ngay phía trước chợ T6 thuộc ấp Y1, xã T6, huyện G.

Khoảng 23 giờ cùng ngày, bị cáo Huỳnh Tiến C3 (anh ruột D) do biết D hẹn Đức D1, T4 giải quyết mâu thuẫn nên cùng bị cáo Lê Hoàng D2 gọi taxi biển số 63A-105.76 của hãng Mai Linh do Lê Văn T10 điều khiển đi tìm D; khi đi C3 và D1 có đem theo 02 khẩu súng. Thông qua điện thoại cho C thì C3 biết nhóm của D đang ở trước chợ T6nên yêu cầu T10 chạy đến. Khi đó, Hoài N3 chở D đến ngã ba T6rồi D điện thoại thì biết Đức D1 đang phía dưới ngã ba T6. Lúc này, C lên taxi cùng C3, Hoàng D2 chạy đến ngã ba T6gặp D và taxi tiếp tục chở C3, Hoàng D2, C còn Hoài N3 thì chở D bằng xe mô tô đến gặp Đức D1, T4. Khi nhóm C3, Hoàng D2, C, D, Hoài N3 xuất phát thì những người còn lại trong nhóm cũng điều khiển xe đến ngã ba T6 rồi xuống đi bộ cầm hung khí để quan sát, sẵn sàng hỗ trợ D nếu có đánh nhau.

Khi C3 nhìn thấy Đức D1, T4 đang đứng tại lề đường Quốc lộ 50 bên phải (theo hướng huyện G đi thị xã G) thì kêu taxi dừng lại. C3 xuống xe thấy Đức D1 đang khom người vào xe mô tô nên nghĩ là Đức D1 định lấy hung khí để tấn công. Ngay lập tức C3 bắn lên trời khoảng 02 phát rồi chĩa súng về hướng Đức D1 bắn khoảng 02 phát nữa và tiến tới kề súng vào đầu Đức D1 để hù dọa. Theo phản xạ thì Đức D1 dùng tay gạt tay C3 sang một bên nên C3 dùng tay đẩy Đức D1 ngã xuống và tiếp tục tiến sát lại bắn khoảng 03 phát nữa vào người của Đức D1 gây thương tích. Trong lúc C3 bắn Đức D1 thì Hoàng D2 thấy T4 tiến lại phía mình, nghĩ T4 tấn công nên Hoàng D2 cũng cầm súng hoa cải bắn 01 phát vào người T4 gây thương tích.

Cùng thời điểm này thì các bị cáo còn lại nghe tiếng súng nhưng không rõ ai bắn, do lo sợ người trong nhóm bị bắn nên chạy đến hỗ trợ. Tại hiện trường thấy Đức D1 trúng đạn nằm dưới đất nên có khoảng 03 - 04 bị cáo cầm hung khí đứng vây quanh Đức D1; T8 dùng dao tự chế đánh nhẹ vào người Đức D1 để hù dọa (không gây ra thương tích). Thấy một số người bên phía Đức D1 gồm Nguyễn Văn C4, Nguyễn Ngọc L4, Lê Bằng Gia B2 quay đầu xe bỏ chạy về hướng thị xã G1 và Đức D1, T4 không còn phản kháng nên các bị cáo nhanh chóng rời khỏi hiện trường.

Đức D1 và T4 được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa khu vực G, sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang rồi Bệnh viện Chợ Rẫy để điều trị.

Sau khi gây án, bị can Võ Duy T7 đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra Q định truy nã.

- Đối với hai khẩu súng, C3 khai nhận đã sử dụng loại súng ngắn còn Hoàng D2 khai nhận sử dụng khẩu súng loại bắn đạn hoa cải, dài khoảng 40cm. Nguồn gốc 02 khẩu súng này là do C3 mua qua mạng Facebook nhưng C3 đã xóa tài khoản Facebook liên lạc mua súng và không nhớ bất kỳ thông tin gì đến người bán súng nên Cơ quan điều tra không thể làm rõ các tình tiết khác liên quan đến việc mua súng của C3. Sau khi mua về C3 đem giấu súng tại bụi cỏ sau nhà cho đến khi gây án. Sau khi gây án tẩu thoát về thì Hoàng D2 đưa súng lại cho C3. Trên đường C3 bỏ trốn đến địa phận huyện B3, tỉnh Long An thì vứt bỏ 02 khẩu súng vào khu vực có nhiều cỏ cây ven đường nhưng không nhớ địa điểm cụ thể. Cơ quan điều tra đã xác minh C3 an huyện B3 nhưng kết quả không phát hiện thông tin gì liên quan đến 02 khẩu súng nêu trên.

- Đối với các hung khí gồm dao tự chế, ông tuýp sắt có đầu nhọn, bình xịt hơi cai trong lúc tẩu thoát các bị cáo đã vứt bỏ dọc tuyến kênh A. Do các bị cáo không nhớ rõ địa điểm cụ thể đã vứt bỏ nên mặc dù Cơ quan điều tra đã thông báo rộng rãi để quần chúng nhân dân địa bàn có tuyến kênh A phối hợp tìm kiếm nhưng vẫn không thu được hung khí.

- Đối với phương tiện là xe mô tô còn lại mà các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu của những phương tiện này không biết các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên không tiến hành thu giữ. Riêng đối với xe mô tô biển số 63B5-41700 của L sau khi gây án L đã bán cho người tên Hùng (không xác định được họ, chữ lót và địa chỉ) với số tiền 7.000.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết. Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm xe mô tô này nhưng đến nay chưa thu giữ được.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Dương Phương T, Nguyễn Minh L, phạm tội “ Gây rối trật tự công cộng”.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Dương Phương T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11 tháng 11 năm 2021, bị cáo Nguyễn Minh L kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 17 tháng 11 năm 2021, bị cáo Nguyễn Dương Phương T kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo giữ y yêu cầu kháng cáo, xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt, riêng bị cáo Nguyễn Dương Phương T hiện đang là sinh viên nên tha thiết xin Hội đồng xét xử cho được hưởng án treo để tiếp tục việc học tập.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm. Đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm xem xét. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, do đó Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải nghiêm trị, khi xét xử, cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt, mức án là phù hợp, không nghiêm khắc, từ khi xét xử sơ thẩm đến nay các bị cáo không bổ sung tình tiết giảm nhẹ mới, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận thống nhất, vào tối ngày 05/9/2020 các bị cáo Nguyễn Dương Phương T, Nguyễn Minh L cùng đồng bọn (tổng cộng 16 đối tượng) mang theo dao, súng tự chế, sử dụng xe mô tô đi thành nhóm qua nhiều tuyến đường thuộc thị trấn V, xã T6 và các khu vực lân cận của huyện G để tìm nhóm Trần Quang T4, Lê Đức D1 giải quyết mâu thuẩn. Khi phát hiện T4, Đức D1 đang đứng tại lề đường Quốc lộ 50 bên phải (theo hướng huyện G đi thị xã G1thuộc khu vực xã T6) thì Huỳnh Tiến C3, Lê Hoàng D2 dùng súng bắn vào người của Đức D1, T4 gây thương tích, nghe tiếng súng nổ, lo sợ người trong nhóm bị bắn nên cả nhóm chạy đến hỗ trợ. Thấy Đức D1, T4 không còn phản kháng nên các bị cáo nhanh chóng rời khỏi hiện trường, sự việc gây náo loạn, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại khu vực.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và kết án các bị cáo Nguyễn Dương Phương T, Nguyễn Minh L về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bỡi lẽ, các bị cáo là người đã thành niên, nhận thức và biết rõ việc mang theo hung khí, tụ tập đông người, dùng hung khí giải quyết mâu thuẩn là vi phạm pháp luật, thế nhưng bản tính hung hăng, xem thường pháp luật, bất chấp thực hiện hành vi phạm tội, tập hợp băng nhóm đông người, sử dụng hung khí gây náo loạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự, gây bức xúc trong cộng đồng, các bị cáo khác còn gây thương tích nặng cho phía bị hại nên cần phải bị xử lý nghiêm khắc.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, trong vụ án này có tổng cộng 13 bị cáo, có 02 bị cáo bị kết án về tội “Cố ý gây thương tích” là Huỳnh Tiến C3 và Lê Hoàng D2; 11 bị cáo Huỳnh Công D, Phan Tuấn C, Ngô Lưu Gia B2, Lê Tấn T8, Nguyễn Trung Công Q, Nguyễn Hoài N2, Nguyễn Dương Phương T, Nguyễn Minh L, Đặng Công S, Lê Hoàng Đ2, Lê Minh T5 bị kết án về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Hội đồng xét xử sơ thẩm đã xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, mới phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, đã áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt các bị cáo mức án như trên là có căn cứ, phù hợp pháp luật, không nghiêm khắc và có phần nhẹ hơn các bị cáo khác trong vụ án, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, các bị cáo không bổ sung tình tiết giảm nhẹ mới, mức án cấp sơ thẩm áp dụng là có lợi cho các bị cáo, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xét giảm hình phạt cho các bị cáo.

Về yêu cầu xin hưởng án treo của bị cáo T, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ ở điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình và xử phạt các bị cáo 02 năm tù là tương xứng, phù hợp với hành vi và mức độ phạm tội, tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa xem xét bị cáo T có nhân thân tốt, hiện đang theo học tại trường Cao đẳng Công thương thành phố Hồ Chí Minh, có hoàn cảnh khó khăn, có nơi cư trú rõ ràng, nên có đủ điều kiện được hưởng án treo, phù hợp quy định tại Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nên Hội đồng xét xử xét không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà chỉ cần giao bị cáo về cho gia đình, địa phương theo dõi giáo dục, tạo điều cho bị cáo có cơ hội học tập, tự cải tạo bản thân thành người tốt.

Từ những phân tích trên, xét ý kiến và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có cơ sơ nên được Hội đồng xét xử xem xét.

Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dương Phương T, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh L.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Dương Phương T, Nguyễn Minh L, phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Dương Phương T 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo và phải chấp hành thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo đang thường trú (xã N, huyện G, tỉnh Tiền Giang) giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Dương Phương T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 74/2022/HS-PT

Số hiệu:74/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về