Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 718/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 718/2022/HS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1140/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo Lê Thị A1 cùng đồng phạm phạm tội “Giết người” và tội “Gây rối trật tự công cộng”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2020/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Thị A1, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT: Thôn 8, xã XP, huyện NT, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Lê Bá A2 và bà Nguyễn Thị A3; chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa từ ngày 10/8/2019 đến ngày 07/12/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Lê Thị A4, sinh năm: 1996; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn XT, xã YT, huyện NT, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Lê Duy A5 và bà Nguyễn Thị A6; chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa từ ngày 13/8/2019 đến ngày 16/8/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Thị A6, Văn phòng Luật sư VH, Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 3h ngày 10/8/2019, sau khi ăn đêm tại quán Nướng 89 ở Đại Lộ LL, phường LS, A18 phố TH, nhóm của Tống Phú A7, cùng Ngô Hùng A8, Cao Thị A9, Cao Thanh A10 (em trai A9), Lê Thị A4, Lâm Thị A11 và Lê Thị A1 cùng nhau về khu nhà trọ tại đường TH, phường ĐT, A18 phố TH. A10 và A9 đi 01 xe máy về trước, A4 lấy xe máy chở A1 và A11 còn A8 và A7 đi 01 xe máy sau cùng.

Cùng lúc này, nhóm của Trịnh Khắc A12 (tức A12 “Bờm”), gồm có: Nguyễn Anh A13 (tức A13 “Ốc”), Nguyễn Duy A14, Nguyễn Minh A15, Lê Hữu A16, Nguyễn Công A13 (tức A13 “Sẹo”) và A14, A15, cũng ăn đêm tại quán ăn gần CH, phường ĐT, A18 phố TH. A13 “Ốc” lấy xe máy chở A15 về trước. Khi A13 “Ốc” và A15 đi trên đường TP thì gặp Nguyễn Văn A16, Nguyễn Văn A17, Lê Văn A18 và Lê Huy A19, đi trên 02 xe máy. Do quen biết với A13 “Ốc” nên A16, A17, A19 và A18 cùng đi với A13 “Ốc” đưa A15 về nhà. Khi đi đến đoạn tượng đài LL thì nhóm của A13 “Ốc” gặp xe của Ngô Hùng A8 chở Tống Phú A7 đi qua. Thấy A13 “Ốc” thì A8 và A7 gọi “Ốc đây rồi” rồi dùng tay chỉ, vẫy A13 “Ốc” dẫn đến cả hai bên có lời qua tiếng lại với nhau, khi xe của nhóm A13 “Ốc” rẽ vào đường HĐ thì xe của A7, A8 chạy lên phía trước, thấy vậy A13 “Ốc” cùng nhóm bạn của mình liền phóng xe đuổi theo xe của nhóm A7. Khi đến ngã tư giao giữa đường LNT và đường TH, A7 và A8 xuống xe thấy có gạch, đá ven đường nên A8, A7 cầm lên ném về phía nhóm của A13 “Ốc” đang đi xe tới. Bị ném gạch, đá nên nhóm của A13 “Ốc” liền xuống xe và cầm gạch, đá ném lại về phía A7 và A8.

Lúc này xe của A4, A1 và A11 đi đến, do thấy A7 và A8 bị một số đối tượng lạ mặt cầm gạch, đá ném nên A4 và A1 cũng xuống xe cầm gạch, ném lại nhóm của A13 “Ốc”.

Lúc này Ngô Hùng A8 cầm viên gạch ném trúng phần trán bên trái của A13 “Sẹo” làm A13 “Sẹo” ngã xuống đường, thấy vậy A7 chạy lại gần cầm viên gạch bằng tay phải đập 01 nhát theo chiều từ trên xuống dưới trúng thái dương bên phải của A13 “Sẹo” khi A13 “Sẹo” đang nhổm dậy, làm A13 “Sẹo” ngã úp mặt xuống mặt đường. Thấy A13 “Sẹo” đang nằm bị thương, A15 cùng A15 đưa A13 “Sẹo” đi cấp cứu, còn những người khác thì vào khu nhà trọ chửi bới, đe dọa, đập phá cửa yêu cầu các phòng trọ mở cửa để tìm người. Người dân thuê trọ sợ không mở cửa liền bị nhóm của A13 “Ốc” và A12 “Bờm” đập phá cửa dẫn đến cửa phòng trọ số 5 bị hư hỏng và làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh khu trọ.

Nguyễn Công A13 (Tú “Sẹo”) bị đa chấn thương ở vùng đầu, máu tụ dưới màng cứng bán cầu, gãy xương chính mũi. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 771/2019/TTPY ngày 30/12/2019 của Trung tâm giám pháp y tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể 84%.

Những ngày sau đó, Tống Phú A7, Cao Thanh A10, Lâm Thị A11, Cao Thị A9, Lê Thị A4, Lê Thị A1, Nguyễn Anh A13, Lê Huy A19, Nguyễn Duy A14, Lê Văn A18, Trịnh Khắc A12, Nguyễn Minh A15 và Nguyễn Văn A17 đến Cơ quan điều tra xin đầu thú.

2. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2020/HSST ngày 19/11/2020, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Tống Phú A7 phạm tội: “Giết người” và tội: “Gây rối trật tự công cộng”. Các bị cáo: Trịnh Khắc A12, Nguyễn Anh A13, Lê Hữu A16, Nguyễn Duy A14, Nguyễn Minh A15, Nguyễn Công A13, Nguyễn Văn A16, Lê Huy A19, Nguyễn Văn A17, Lê Văn A18, Lâm Thị A11, Lê Thị A1 và Lê Thị A4 phạm tội: “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự đối với Tống Phú A7; thêm khoản 3 Điều 57 đối với tội “Giết người”; thêm Điều 58 đối với tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt Tống Phú A7: 13 (Mười ba) năm tù về tội “Giết người” và 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, tổng hợp hình phạt hai tội là: 16 (Mười sáu) năm tù; tổng hợp với 30 (Ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ chưa chấp hành của Bản án số 372/2019/HSST ngày 29/11/2019 của TAND A18 phố TH (quy đổi bằng 10 tháng tù). Buộc bị cáo chấp hành hình phạt của hai Bản án là: 16 năm 10 tháng (Mười sáu năm, mười tháng) tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 10/8/2019.

- Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với: Trịnh Khắc A12, Nguyễn Duy A14, Lê Thị A1, Lê Thị A4, Lê Huy A19 (thêm điểm h khoản 1 Điều 52 đối với A12); (thêm Điều 38 Bộ luật hình sự đối với: A12, A14, A19, A1 và A4).

+ Xử phạt: Trịnh Khắc A12, 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian chấp hành hình phạt của Trịnh Khắc A12 tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/8 đến ngày 07/12/2019.

+Xử phạt: Nguyễn Duy A14, Lê Thị A1 và Lê Thị A4 mỗi bị cáo 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt các bị cáo đi thi hành án, Nguyễn Duy A14 và Lê Thị A1 được trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/8 đến ngày 07/12/2019; Lê Thị A4 được trừ thời gian tạm giam từ ngày13/8 đến ngày 16/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/12/2020 bị cáo Tống Phú A7 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02/12/2020 bị cáo Trịnh Khắc A12 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 27/11/2020 bị cáo Lê Huy A19 và bị cáo Nguyễn Duy A14 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 23/11/2020 bị cáo Lê Thị A4 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 27/11/2020 bị cáo Lê Thị A1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 17/03/2021 bị cáo Lê Huy A19 có đơn xin rút kháng cáo (đơn có xác nhận của UBND phường ĐT).

Ngày 05/4/2021 Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 19A/2021/HSPT-QĐ đối với kháng cáo của bị cáo Lê Huy A19.

Ngày 25/02/2020 bị cáo Nguyễn Duy A14 có đơn xin rút kháng cáo (đơn không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền).

3. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/4/2021 bị cáo Tống Phú A7, Trịnh Khắc A12 xin rút kháng cáo. Bị cáo Nguyễn Duy A14 xác nhận đơn rút kháng cáo đề ngày 25/02/2020 là do bị cáo viết, nhưng do không hiểu biết nên không xin xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Hội đồng xét xử đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 29A/2021/HSPT-QĐ đối với kháng cáo của các bị cáo Tống Phú A7,Trịnh Khắc A12, Nguyễn Duy A14.

4. Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo Lê Thị A4, Lê Thị A1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, xin giảm hình phạt và được hưởng án treo, vì phạm tội do bột phát, thấy các bạn của mình bị đuổi đánh thì cũng chỉ một lần cầm gạch ném bừa, người bị thương không phải do các bị cáo trực tiếp gây ra, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ thì già yếu, các em còn nhỏ dại.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên toà có quan điểm như sau: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo Tống Phú A7, Trịnh Khắc A12, Nguyễn Duy A14, Lê Huy A19, Lê Thị A4, Lê Thị A1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng sau đó bị cáo Lê Huy A19 có đơn xin rút kháng cáo. Ngày 05/4/2021 Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Huy A19. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/4/2021 bị cáo Tống Phú A7, Trịnh Khắc A12, Nguyễn Duy A14 Hội đồng xét xử đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 29A/2021/HSPT-QĐ đối với kháng cáo của các bị cáo Tống Phú A7, Trịnh Khắc A12, Nguyễn Duy A14.

- Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Thị A1, Lê Thị A4 thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Lê Thị A1 24 tháng tù, Lê Thị A4 24 tháng tù về tội: “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên xét tổng thể trong vụ án thì thấy cả hai bị cáo đều tham gia với vai trò đồng phạm, không có sự bàn bạc từ trước, có tính chất a dua, hùa theo đám đông hậu quả do chính hai bị cáo gây ra là không đáng kể. Cả hai bị cáo có nhân thân tốt, hiện đều có công việc ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tuổi đời còn trẻ, tại cơ quan điều tra cũng như tại các phiên tòa đều A18 khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho hai bị cáo được hưởng án treo.

- Luật sư bào chữa cho các bị cáo có quan điểm: Các bị cáo luôn luôn thể hiện thái độ A18 khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện rất khó khăn, bố, mẹ già yếu, tuổi đời cả hai bị cáo đều còn trẻ, chưa lập gia đình, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo.

- Các bị cáo không tranh luận và bào chữa gì thêm.

- Lời sau cùng cả hai bị cáo đều xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Kiểm sát viên, thẩm phán, thư ký trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định, đúng quy định của pháp luật do đó được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[3]. Về nội dung vụ án: Khoảng 03 giờ sáng ngày 10/8/2019, Tống Phú A7 và Ngô Hùng A8 có hành động khiêu kích đối với Nguyễn Anh A13 do đó A13 cùng với A16, A18, A17 và A19 đã dùng xe máy đuổi theo A7 và A8 sau đó A7 và A8 dừng xe nhặt gạch, đá ném về phía nhóm A13 nên nhóm của A13 cũng xuống xe nhặt gạch, đá ném lại. Thấy vậy A1, A4 nhặt gạch ném nhóm của A13 “Ốc” làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh khu trọ.

[4]. Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy như sau: Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ giữa nhóm của Tống Phú A7 và nhóm của Nguyễn Anh A13 (Tú “Ốc”), hai bị cáo A1, A4 nhặt gạch ném nhóm của A13 “Ốc”. Hành vi của các bị cáo xâm phạm trật tự an toàn công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất A19 trong quần chúng nhân. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Lê Thị A1 24 tháng tù, Lê Thị A4 24 tháng tù giam về tội: “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ.

Trong vụ án này bị cáo Tống Phú A7 là người gây mâu thuẫn và khởi xướng việc dùng gạch đá ném nhau với nhóm A13 “Ốc”. Bị cáo Lê Thị A1 và Lê Thị A4 là những người đi chơi cùng, khi thấy nhóm của A13 “Ốc” và nhóm của A7 lùa, đuổi nhau, A4, A1 cũng a dua nhặt gạch ném nhóm A13 “Ốc”. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo Lê Thị A1 và Lê Thị A4 đã tự nguyện đến Cơ quan điều tra xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo xuất trình các loại giấy tờ có xác nhận của chính quyền địa phương về các nội dung sau:

Cả hai bị cáo đều tích cực tham gia các hoạt động xã hội, bị cáo Lê Thị A4 đóng góp ủng hộ quỹ vì người nghèo 2.000.000, bị cáo Lê Thị A1 đóng góp ủng hộ quỹ vì người nghèo 1.000.000 có xác nhận của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã Yên Thọ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Trước khi xét xử phúc thẩm nhiều lần Lê Thị A4 tiếp tục đóng góp vào quỹ vì người nghèo cụ thể các ngày: 18/5/2021, 17/10/2021, 12/01/2022, 15/6/2022 mỗi lần 500.000 đồng có xác nhận của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã Yên Thọ. Ngày 08/8/2022 các bị cáo Lê Thị A1 và Lê Thị A4 đã nhặt được 50.000.000 đồng và một số giấy tờ mang tên Nguyễn Văn Mạnh ở huyện Nông Cống, Thanh Hóa, số tiền và giấy tờ trên các bị cáo đã giao nộp cho Công an xã Yên Thọ để trả lại cho anh Mạnh.

Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án này là gây rối trật tự công cộng với vai trò đồng phạm; trước khi phạm tội các bị cáo đều là những công dân tốt, chưa vi phạm pháp luật, hiện đang có công việc ổn định, có nơi cư trú rõ ràng; có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình, tuổi đời còn rất trẻ chưa xây dựng gia đình, có mức hình phạt dưới 3 năm tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tiếp tục đề nghị cho các bị cáo được hưởng án treo như tại phiên tòa sơ thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã đề nghị.

Từ những phân tích ở trên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo, như vậy vẫn đảm bảo tính nghiêm khắc đồng thời cũng thể hiện sự nhân đạo của pháp luật đối với những người lần đầu phạm tội có thái độ thật sự ăn năn hối cải trước hành vi phạm tội của mình.

[5] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2020/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa cụ thể như sau:

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 17, Điều 65; Bộ luật hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

- Xử phạt: Lê Thị A1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Lê Thị A1 cho UBND xã Xuân Phúc, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóagiám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

- Xử phạt: Lê Thị A4 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Lê Thị A4 cho UBND xã Yên Thọ, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

396
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 718/2022/HS-PT

Số hiệu:718/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về