TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 527/2023/HS-PT NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 28/6/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 397/2023/TLPT-HS ngày 24/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử phúc thẩm số 373/2023/QĐXXPT-HS ngày 02/6/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2023/HSPT-QĐ ngày 15/6/2023 đối với bị cáo Trần Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo: TRẦN VĂN N, sinh năm 1954 tại Ninh Bình; giới tính: Nam; ĐKNKTT và trú tại: Xóm 4, xã TC, huyện KĐ, tỉnh Ninh Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 04/10; con ông Trần Văn H và bà Trần Thị Tr (Đều đã chết); tình trạng hôn nhân: Có vợ là Trần Thị T và 08 con, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Chưa; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2002/HS-ST ngày 18/10/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình và Bản án hình sự phúc thẩm số 40/2003/HS-PT ngày 23/01/2003 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội xử phạt 04 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, 04 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, 03 năm tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, tổng hợp, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 11 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/4/2013; Ngày 21/10/2019, Công an phường Quang Trung, quận Hà Đông xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo : Ông Nguyễn Công Q và ông Nguyễn Văn T, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH IMC; Ông Nguyễn Mạnh T, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Minh G - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ 40 phút ngày 08/6/2022 tại cổng Trụ sở tiếp công dân Trung ương (Địa chỉ: Số 01 phố Ngô Thì Nhậm, phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), có rất đông người dân đứng hò hét, trên tay cầm băng rôn có nội dung liên quan đến các vấn đề khiếu nại, khiếu kiện của họ. Thấy vậy, bị cáo Trần Văn N và vợ là bà Trần Thị T (Sinh năm 1958) cũng đi đến đứng cùng những người này. Sau đó, anh Nguyễn Trung D (Sinh năm 1981, là Thanh tra viên - Phòng tiếp dân 1 - Ban tiếp công dân Trung ương) và anh Lê Hải Đ (Sinh năm 1974, là Phó Phòng tổng hợp - Ban tiếp công dân Trung ương - TW) đi xe ôtô vào Trụ sở tiếp công dân TW để làm việc. Tổ bảo vệ mở cổng Trụ sở để cho xe ôtô của anh Nguyễn Trung D và anh Lê Hải Đ đi vào thì Trần Văn N và một số người dân khiếu kiện khác đứng chắn trước đầu xe ôtô. Thấy vậy, lực lượng bảo vệ của Trụ sở tiếp công dân TW yêu cầu Trần Văn N và mọi người dân khiếu kiện tránh sang hai bên để cho xe ôtô đi vào Trụ sở làm việc, rồi đóng cổng lại. Lúc này, Trần Văn N đứng ngoài cổng la hét, chửi bới nội dung: “Mày là đồ ăn cháo đái bát, tao đứng đây không phải là đất nhà mày”… Lực lượng bảo vệ của Trụ sở tiếp công dân TW đã dùng máy quay ghi lại hình ảnh Video Clips, thì Trần Văn N tự tụt quần dài và quần đùi đang mặc xuống ngang mắt cá chân, để lộ bộ phận sinh dục và có lời lẽ chửi bới thô tục, phản cảm, gây mất trật tự ở khu vực cổng chính Trụ sở tiếp dân TW, gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Trụ sở tiếp dân TW, sau khoảng 03 phút thì Trần Văn N tự mặc quần.
Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông đã áp dụng khoản 1 Điều 318; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn N 15 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 21, 23, 28/3/2023, bị cáo Trần Văn N có đơn kháng cáo đề nghị xem xét hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Văn N thay đổi yêu cầu kháng cáo, bị cáo thừa nhận có hành vi vi phạm, có lỗi nên Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét khoan hồng, giảm hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331, 332 và 333, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” là đúng, không oan; hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an, gây cản trở hoạt động bình thường ở nơi công cộng; về nhân thân, bị cáo đã có tiền án, tiền sự dù đã xóa; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 để chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình thức và nội dung, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cụ thể: Áp dụng khoản 1 Điều 318; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn N từ 12 đến 14 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Những người bào chữa cho bị cáo đề nghị: Cần xem xét cặn kẽ nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi vi phạm của bị cáo; tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, đã đến mức phải xử lý hình sự chưa hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính; bị cáo Trần Văn N có trình độ học vấn thấp, nhận thức, hiểu biết về pháp luật hạn chế; hiện bị cáo đã 70 tuổi, sức yếu, bệnh tật, hoàn cảnh khó khăn; có địa chỉ cư trú rõ ràng; tại cấp sơ thẩm bị cáo vẫn khai nhận hành vi vi phạm nhưng nhận thức rằng do bức xúc mới làm vậy nên không phạm tội; tại cấp phúc thẩm bị cáo đã nhận thấy sai lầm, xin lỗi và đề nghị được giảm nhẹ hình phạt. Các luật sư đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm h, o, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án này các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo Trần Văn N có đơn kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.
[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của những người có liên quan; người làm chứng; dữ liệu trích xuất các Video clips và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác đã thu thập được, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khoảng 07 giờ 40 phút ngày 08/06/2022 tại cổng chính Trụ sở tiếp công dân TW ở số 01 phố Ngô Thì Nhậm, phường Quang Trung, quận Hà Đông, Trần Văn N cùng một số người dân khiếu kiện cầm băng rôn, khẩu hiệu đứng hò hét, chửi bới, cản trở việc ra vào tại Trụ sở sở tiếp công dân TW. Sau đó, Trần Văn N có hành vi tự tụt quần của mình xuống ngang mắt cá chân để lộ bộ phận sinh dục và có lời lẽ chửi bới, xúc phạm, gây phản cảm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội tại khu vực cổng chính Trụ sở tiếp dân TW và khu vực cộng cộng. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Văn N bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm và gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nơi công cộng; xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan hành chính Nhà nước; gây phản cảm, thể hiện thái độ chống đối, coi thường pháp luật nên việc áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là đúng và cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương .
Về nhân thân, bị cáo đã từng bị kết án tù và bị xử phạt hành chính về các hành vi cùng loại nhưng không lấy đó làm những bài học cảnh tỉnh, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo vẫn khai nhận hành vi vi phạm nhưng nhận thức rằng do bức xúc mới làm vậy nên không phạm tội; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã nhận thấy tội lỗi, sai lầm và đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt; bản thân bị cáo đã gần 70 tuổi nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, chấp nhận nội dung kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Trần Văn N.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo Trần Văn N kháng cáo được chấp nhận nên không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn N, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, cụ thể:
1.1) Áp dụng khoản 1 Điều 318; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn N 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đầu thi hành án.
1.2) Bị cáo Trần Văn N không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 527/2023/HS-PT
Số hiệu: | 527/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về