Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 38/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 38/2024/HS-PT NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 27 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2024/TLPT-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Nguyễn Việt D, Trịnh Đức E, Lã D F do có kháng cáo của bị cáo Vũ K C, bị cáo Trịnh Đức E, bị cáo Nguyễn Việt D, bị cáo Lã D F và người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Nguyễn Việt D, Lã D F, Trịnh Đức E đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện T, thành phố H.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Đàm Trì A, sinh ngày 13 tháng 12 năm 2006 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 04 tháng 16 ngày) tại H; Nơi cư trú: Thôn 4, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm Trì T và bà Nguyễn Thị N; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định số 186 ngày 12/5/2023, bị Công an huyện T xử lý vi phạm hành chính về hành vi mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác; bị cáo bị tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2023; có mặt.

2. Đỗ Đăng B, sinh ngày 20 tháng 12 năm 2006 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 04 tháng 08 ngày) tại H; Nơi cư trú: Thôn 5, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đăng Th và bà Trần Thị P; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định số 187 ngày 12/5/2023, bị Công an huyện T xử lý vi phạm hành chính về hành vi mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác; bị cáo bị tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2023; có mặt.

3. Vũ K C, sinh ngày 17 tháng 01 năm 2007 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 03 tháng 11 ngày) tại H; Nơi cư trú: Thôn 4, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn K và bà Vũ Thị N; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/5/2023, bị Công an huyện T xử lý vi phạm hành chính về hành vi mang theo trong người hoặc tàng trữ, cất giấu các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng sát thương; đồ vật, phương tiện giao thông nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác; bị bắt tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2023; có mặt.

4. Trịnh Đức E, sinh ngày 27 tháng 11 năm 2006 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 05 tháng 01 ngày) tại H; Nơi cư trú: Tổ dân phố Quyết Tâm, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Văn B và bà Bùi Thị H; tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07/9/2023; có mặt.

5. Nguyễn Việt D, sinh ngày 16 tháng 10 năm 2006 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 06 tháng 12 ngày); tại H; nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H; nơi ở hiện nay: Tổ dân phố Quyết Th3, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học vấn:

11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Nguyễn Thị L và bố không xác định được; tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07/9/2023; có mặt.

6. Lã D F, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2006 (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội 16 tuổi 06 tháng 22 ngày); tại H; Nơi cư trú: Tổ dân phố Quyết Th3, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lã Văn K và bà Trịnh Thị V; tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07 tháng 9 năm 2023; có mặt.

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Ngoài ra còn có 02 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Đàm Trì A: Ông Đàm Trì Th, sinh năm 1986 và bà Nguyễn Thị Ninh, sinh năm 1990; cùng địa chỉ: Thôn 4, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H (bố mẹ của bị cáo); cùng có mặt;

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Đỗ Đăng B: Ông Đỗ Đăng T, sinh năm 1986 và bà Trần Thị P, sinh năm 1988; cùng địa chỉ: Thôn 5, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H (bố mẹ của bị cáo); cùng có mặt;

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Vũ K C: Ông Vũ Văn K, sinh năm 1984 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1983; cùng địa chỉ: Thôn 4, xã Gia Đức, huyện T, thành phố H (bố mẹ của bị cáo); cùng có mặt;

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Việt D: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ dân phố Quyết Th3, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H (mẹ của bị cáo); vắng mặt;

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lã D F: Ông Lã Văn K, sinh năm 1971 và bà Trịnh Thị V, sinh năm 1969; cùng địa chỉ: Tổ dân phố Quyết Th3, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H (bố mẹ của bị cáo); ông K có mặt, bà V vắng mặt;

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trịnh Đức E: Ông Trịnh Văn B, sinh năm 1972 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1973; cùng địa chỉ: Tổ dân phố Quyết Tâm, thị trấn Đ, huyện T, thành phố H (bố mẹ của bị cáo); ông B vắng mặt, bà Hương có mặt;

- Người bào chữa cho bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Trịnh Đức E; Nguyễn Việt D: Ông Bùi Văn B – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ K C:

+ Bà Nguyễn Thị Hồng T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.

+ Ông Nguyễn Văn T, ông Đinh Phú M và ông Đinh Hữu C – Luật sư Công ty Luật TNHH MTV G, Đoàn luật sư thành phố H; ông T và ông M có mặt, ông C vắng mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lã D F: Bà Đoàn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.

- Đại diện Trường Trung học phổ thông N nơi bị cáo Nguyễn Việt D và bị cáo Lã D F đang học - Bà Hoàng Thị L; vắng mặt.

- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xã Gia Đức, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

- Đại diện Trường Trung học phổ thông Bạch Đằng nơi bị cáo Trịnh Đức E đang học; vắng mặt.

- Người kháng cáo: Bị cáo Vũ K C, Nguyễn Việt D, Lã D F, Trịnh Đức E; người đại diện hợp pháp của bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Lã D F.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước với anh Lý Đức Th sinh ngày 30/01/2008 (15 tuổi 03 tháng), ở thôn 4, xã Gia Minh, huyện T nên tối ngày 28/4/2023, Đàm Trì A rủ Vũ K C, Đỗ Đăng B, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Việt D, Lã D F, Trịnh Đức E, Phạm T2 Th1; Vũ Quang Tuấn A, sinh ngày 15/12/2007 (15 tuổi 04 tháng 13 ngày) ở thôn 4, xã Gia Đức, huyện T; Nguyễn Quang H1, sinh ngày 22/5/2008 (14 tuổi 11 tháng 06 ngày) ở thôn 2, xã Tam Hưng, huyện T; Trần Anh Q, sinh ngày 09/9/2008 (14 tuổi 07 tháng 19 ngày), Trần Anh Q, sinh ngày 09/9/2008 (14 tuổi 07 tháng 19 ngày), Bùi Ngọc P sinh ngày 03/02/2009 (14 tuổi 02 tháng 25 ngày), Lê Đức M, sinh ngày 21/9/2007 (15 tuổi 07 tháng 07 ngày), Hồ Nam T2, sinh ngày 14/7/2008 (14 tuổi 09 tháng 14 ngày) đều ở thị trấn Đ, huyện T; Nguyễn Văn P, sinh ngày 26/6/2007 (15 tuổi 10 tháng 02 ngày) ở xã Lưu Kiếm, huyện T đi tìm đánh Lý Đức Th, cả nhóm đồng ý. Sau đó Đ, H1, Tuấn A, D về nhà Đ lấy 03 thanh giáo chọc (do Đ chuẩn bị trước đó) mang theo để đi đánh nhau. Sau khi lấy được hung khí, cả nhóm đi 07 xe mô tô dàn hàng ngang, phóng nhanh trên trục đường liên xã từ thị trấn Đ – Minh Tân – Lưu Kiếm, trong đó: Nguyễn Quang H1 điều khiển xe mô tô (không nhớ biển kiểm soát) chở Tuấn A ngồi sau cầm 01 thanh giáo chọc; Quân điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22T1-xxxx chở Đ cầm 01 thanh giáo chọc; Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1 – xxxx chở Đức; A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-xxxx chở D; T2 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15AF-xxxx chở M; P (xã Lưu Kiếm) điều khiển xe mô tô chở P (thị trấn Đ) và E cầm theo 01 thanh giáo chọc; Th1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-xxxx chở F. Khi cả nhóm đi đến khu vực cổng Trường THPT Bạch Đằng thuộc xã Lưu Kiếm, huyện T thì thấy Lý Đức Th cùng bạn là Vũ Đức Tr, sinh ngày 05/11/2008 ở thôn 4, xã Gia Minh đang ngồi uống nước. Thấy nhóm A đi đến đông người lại cầm theo hung khí nên Th đã điều khiển xe mô tô chở Tr bỏ chạy, nhóm A đuổi theo. Khi đi được khoảng 300m thì Th điều khiển xe mô tô chở Tr chạy vào trong quán tạp hoá “N” của anh Đào Văn H, sinh năm 1996 ở thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T làm chủ để trốn. Lúc này nhóm A đuổi đến, dừng xe trên đường trước cửa quán “N” hò hét, chửi bởi. Sau đó, Tuấn A, Đ, E mỗi người cầm 01 thanh giáo chọc cùng D, Th3, Q, T2, P (Đ) xuống xe và chạy đến trước cửa quán; D, Tuấn A, Th3, T2 vào trong quán lôi, kéo Th ra ngoài sân trước cửa quán. Tại đây D, Tuấn A, Th3, T2, Q, P (Đ) dùng tay, chân đấm đá nhiều nhát và dùng giáo chọc đập vào người anh Th. Bị nhóm A đánh, Th chạy vào trong quán tạp hóa thì nhóm A không đuổi đánh nữa rồi cả nhóm đi về khu di tích G. Tại đây, nhóm A gặp Phạm Ngọc H1, sinh năm 2004, ở thôn 4 xã Gia Đức, T điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Đức T3, sinh ngày 08/10/2007 ở thị trấn Đ, huyện T cầm theo một ống tuýp kim loại (dài 2.7m, đường kính 02cm) đi đến. Nguyên kể lại cho Ngọc H1 và T3 biết việc vừa đi đánh Th tại xã Lưu Kiếm xong nên cả nhóm giải tán đi về.

Đến ngày 29/4/2023, anh Lý Đức Th đã làm đơn trình báo Cơ quan Công an về việc bị nhóm của Đàm Trì A đuổi đánh như trên. Sau khi tiếp nhận nguồn tin, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ: 01 đĩa CD lưu giữ hình ảnh, diễn biến nội dung vụ việc đánh nhau; 01 thanh giáo chọc dài 3.18m, đường kính 02cm, thân giáo hình trụ tròn, mũi giáo có gắn dao bầu đầu nhọn, lưỡi sắc (tại bãi đất trống thuộc khu tái định cư thị trấn Đ); 01 thanh kim loại dài 03m, đường kính 2cm, một đầu gắn 01 dao mũi nhọn (do Tuấn A sử dụng); 01 thanh kim loại hình trụ tròn dài khoảng 2.7m, đường kính 02cm (do T3 cầm đi nhưng chưa sử dụng đánh nhau); 04 chiếc xe mô tô (gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS 15AF-xxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 22T1 - 048.13; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 15G1-xxxx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 15GI - xxxx).

T2 hành khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực có liên quan của Nguyễn Văn Đ và Trịnh Đức E: Không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại Bản kết luận giám định về thương tích số 358/2023/KLTTCT- TTPYHP ngày 05/6/2023 của Trung tâm pháp y H kết luận: Toàn thân Lý Đức Th không có dấu vết thương tích, không xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể và không có căn cứ đánh giá đặc điểm vật gây thương tích.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02-01-2024 của Toà án nhân dân huyện T, thành phố H đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Đàm Trì A; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự, Tuyên bố bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”, xử phạt:

Đàm Trì A 36 (ba mươi sáu) tháng tù Đỗ Đăng B 24 (hai mươi bốn) tháng tù Vũ K C 24 (hai mươi bốn) tháng tù Trịnh Đức E 15 (mười lăm) tháng tù Nguyễn Việt D 15 (mười lăm) tháng tù Lã D F 15 (mười lăm) tháng tù.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 15/01/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo Đàm Trì A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 15/01/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo Đỗ Đăng B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 10/01/2024 bị cáo Vũ K C có đơn kháng cáo; ngày 17/01/2024, người đại diện hợp pháp của bị cáo Vũ K C là ông Vũ Văn K và bà Vũ Thị N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 15/01/2024, bị cáo Nguyễn Việt D có đơn kháng cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

Ngày 15/01/2024, bị cáo Lã D F và người đại diện hợp pháp của bị cáo Lã D F có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 09/01/2024, bị cáo Trịnh Đức E có đơn kháng cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Xét kháng cáo của các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết. Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F và người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Lã D F; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D:

Đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” đối với bị cáo Đàm Trì A vì tình tiết này chỉ áp dụng đối với bị cáo là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) theo khoản 3 Điều 416 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bố bị cáo B bị bệnh nặng phải điều trị tại bệnh viện nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo B. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A và bị cáo B, quyết định mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với hai bị cáo.

Bị cáo E, Đức chỉ có hành vi hò hét, không tham gia đánh Th. Hai bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, hiện đang chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp ba nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo E và Đức được hưởng án treo.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ K C là ông Nguyễn Văn T và ông Đinh Phú M: Xuất phát từ mâu thuẫn của Đàm Trì A và Lý Đức Th từ trước nên Nguyên rủ các bị cáo khác tham gia đánh Th. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo C chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế nên đã phạm tội. Tại phiên toà, bị cáo rất ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, bản án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo quá cao. Trước khi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự gì. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp được thêm tình tiết giảm nhẹ mới là ông nội, ngoại và bác ruột của bị cáo là thương binh. Hiện nay bị cáo đang học tại Trường THPT N, hành vi phạm tội của bị cáo là không đáng kể, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự và áp dụng triệt để nguyên tắc đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Bộ luật Hình sự đối với bị cáo để đưa ra mức án khoan hồng, cho bị cáo được hưởng án treo hoặc được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo trở về với gia đình và trở thành một công dân tốt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ K C là bà Nguyễn Thị Hồng T: Bị cáo C không phải chủ mưu, bị rủ rê đi đánh nhau. Vai trò của bị cáo C trong vụ án là thấp, không chuẩn bị hung khí, chỉ dung chân tay đánh Th. Bị cáo C có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do vậy mức hình phạt 24 tháng của Toà án cấp sơ thẩm là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo Lã D F: Mức hình phạt đối với bị cáo F là nặng, không phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Khi phạm tội, bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, dễ bị lôi kéo, rủ rê tham gia đánh nhau. Tại cấp sơ thẩm phân tích vai trò của bị cáo F là tích cực, ngang với bị cáo khác là không phù hợp bởi lẽ bị cáo F không mang theo hung khí, khi đến quán N, bị cáo đứng phía ngoài đường, không tham gia đánh Th. Bố bị cáo F đã có đơn xin xác nhận của nhà trường và địa phương, hiện bị cáo F đang học lớp 12 chuẩn bị thi tốt nghiệp, bị cáo F có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, bị cáo F có đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo không tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, vô cùng ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Các bị cáo Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, vô cùng ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét kháng cáo của các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo thừa nhận có hành vi điều khiển xe mô tô dàn hàng ngang, phóng nhanh, cầm theo hung khí đi trên tuyến đường liên xã Đ – Minh Tân – Lưu Kiếm, khi đến một cửa hàng thuộc thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T, H đã hò hét, chửi bới, đánh anh Lý Đức Th. Hành vi của các bị cáo mặc dù không để lại thương tích cho anh Th nhưng làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu và hoang mang trong quần chúng nhân dân. Toà án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Bị cáo Đàm Trì A là người rủ các bị cáo khác đi đánh nhau. Việc áp dụng tình tiết tăng nặng “ Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” không phụ thuộc vào độ tuổi của người xúi giục. Do đó, không có căn cứ chấp nhận quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Đàm Trì A đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng nêu trên đối với bị cáo.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo: Tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo C cung cấp tài liệu thể hiện ông nội, ông ngoại của bị cáo C là thương binh. Tài liệu này đã được cung cấp tại cấp sơ thẩm và Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo, đo đó Toà án cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết. Gia đình bị cáo E cung cấp tài liệu thể hiện bị cáo E có ông bà nội có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương gia đình bị cáo B cung cấp tài liệu thể hiện bố đẻ của bị cáo B bị bệnh phải điều trị ở bệnh viện, gia đình bị cáo bị cáo F cung cấp tài liệu thể hiện bị cáo F đang học lớp 12 chuẩn bị thi tốt nghiệp, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Hội đồng xét xử xét thấy, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật phù hợp với vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, người đại diện hợp pháp của các bị cáo A, Th3, D và quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt; không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo D, F, E, người đại diện hợp pháp của bị cáo F và quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo đề nghị được hưởng án treo.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F và người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Lã D F; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H.

[6] Đối với bị cáo Đàm Trì A: Tại thời điểm xét xử phúc thẩm, Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2024/HS-ST ngày 23/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với mức hình phạt là 30 tháng tù. Bản án này chưa có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt đối với bị cáo Đàm Trì A.

[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

[8] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F, người đại diện hợp pháp của bị cáo Đàm Trì A và Đỗ Đăng B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận. Do các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F chưa đủ 18 tuổi nên người đại diện hợp pháp của các bị cáo sẽ nộp thay.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F và người đại diện hợp pháp của các bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Lã D F; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Đàm Trì A; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đàm Trì A, Đỗ Đăng B, Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt bị cáo Đàm Trì A 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 04 tháng 8 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Đỗ Đăng B 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 04 tháng 8 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Vũ K C 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 04 tháng 8 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Trịnh Đức E 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt D 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Lã D F 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F, người đại diện hợp pháp của bị cáo Đàm Trì A và Đỗ Đăng B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Người đại diện hợp pháp của các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F có trách nhiệm nộp thay các bị cáo Vũ K C, Trịnh Đức E, Nguyễn Việt D, Lã D F số tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2024/HS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 38/2024/HS-PT

Số hiệu:38/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về