TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 19 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 05/6/2020, đối với các bị cáo:
1. Trƣơng Đức Th - sinh năm: 1993; nơi cư trú: thôn TĐV, xã TN, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Bình M (đã chết) và bà Phạm Thị Y; có vợ Nguyễn Thị X và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 21/11/2019, bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 24 tháng tù về tội “Đánh bạc” và 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” chuyển đổi thành 08 tháng tù, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 32 tháng tù; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hà Nam, có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Văn T - sinh ngày: 20/7/2002; nơi cư trú: thôn KL, xã TN, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T1 và bà Lê Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 21/11/2019, bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo đươc tai ngoa,i có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Văn T2 - sinh ngày: 23/6/2002; nơi cư trú: thôn ĐV I, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 30/10/2019, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau”; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo đươc tai ngoại, có mặt tại phiên tòa.
4. Vũ Tiến D - sinh ngày 02/10/2001; nơi cư trú: thôn LN, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn H và bà Phạm Thị Ng; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 24/8/2019, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau” và ngày 26/9/2019, bị Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh bạc”; tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo đươc tai ngoai , có mặt tại phiên tòa.
5. Nguyễn Văn N - sinh năm: 1998; nơi cư trú: thôn CL, xã BN, huyện BL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 19/11/2018, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “cố ý làm hư hỏng tài sản”; đặc điểm nhân thân: ngày 19/01/2016, bị Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác”, ngày 26/6/2017, bị Công an huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau”, ngày 03/3/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 21/10/2019, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam khởi tố về tội “Cướp tài sản”; tạm giữ: không.
Bị cáo hiện đang bị tạm giam về tội “Cố ý gây thương tích” tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hà Nam, có mặt tại phiên tòa.
6. Nguyễn Văn T - sinh năm 1988; nơi cư trú: thôn TK, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị K; có vợ Dương Thị T và 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: ngày 20/02/2009, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “cố ý gây thương tích” và ngày 17/9/2013, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau”;
tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo đươc tai ngoai, có mặt tại phiên tòa.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn T2: bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1981; nơi cư trú: thôn ĐV I, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: làm ruộng; là mẹ của bị cáo; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T2: bà Trần Thị Huyền Chi - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Na; mcó mặt.
- Người đại diện hợp pháp đồng thời là người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: ông Lê Văn T1 - sinh năm 1976; nơi cư trú: thôn KL, xã TN, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: làm ruộng; là bố của bị cáo; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1969; nơi cư tru: thôn MC, xã TN, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng măt.
2. Chị Hoàng Thị Ngọc A - sinh năm 1996; nơi cư tru: thôn B, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng măt.
3. Ông Nguyễn Minh V - sinh năm 1982; nơi cư tru: tiểu khu 1, thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng măt.
- Người làm chứng:
1. Bà Bùi Thị M - sinh năm 1958; vắng măt.
2. Bà Lại Thị T - sinh năm 1989; vắng măt.
3. Ông Phạm Văn H - sinh năm 1979; vắng măt.
4. Bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1968; vắng măt.
5. Anh Phạm Duy K - sinh năm 1990; vắng măt.
6. Bà Trần Thị C - sinh năm 1985; vắng măt.
7. Ông Nguyễn Xuân T - sinh năm 1978; vắng măt.
8. Anh Lại Văn D - sinh năm 1990; vắng măt.
9. Bà Lê Thị C - sinh năm 1970; vắng măt.
10. Bà Đinh Thị X - sinh năm 1955; vắng măt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 01/4/2019, Lê Văn T điều khiển xe mô tô chở chị Nguyễn Thị X (là vợ của Trương Đức Th) đi chợ. Khi đi đến khu vực ngã tư phố Cà, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì phát sinh mâu thuẫn với Vũ Tiến D do T cho rằng D lạng lách, đánh võng qua đầu xe mô tô của T. Sau đó, T dừng xe lại, nhờ người chở chị X về trước còn T rút chìa khóa xe mô tô, để xe ở lại khu vực ngã tư phố Cà rồi bỏ chạy vào một nhà dân ở gần đó. Khoảng 15 phút sau, T đi về quán Hắc Long của Trương Đức Th tại thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên. Lúc này, Th đang ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định thì nhận được điện thoại của chị X nói về việc có người đánh T không cho về. Thấy vậy, Th gọi điện thoại cho Hoàng Bá H bảo H ra Phố Cà tìm T. Sau đó, Hùng cùng Phạm Văn T2 và Trần Văn Tr đi xe mô tô tới khu vực phố Cà thì gặp Vũ Tiến D. Tại đây, giữa hai bên xảy ra xô sát, T2 dùng tay phải đấm một nhát trúng mặt D và bảo D gọi người tới quán Hắc Long để nói chuyện rồi cùng với H, Tr đi về quán Hắc Long thì gặp T đang ở đó. Do biết nhóm của D sẽ đến tìm, nên T và Trung, T2, Hùng ra phía sau quán nhặt gạch, đá ở cạnh tường quán Hắc Long mang vào để sẵn trong quán đợi nhóm D đến.
Về phía Vũ Tiến D, sau khi bị đánh, D gọi điện cho Nguyễn Văn N, Trần Xuân T kể về việc mình bị người của quán Hắc Long đánh. Sau khi nghe D nói, T gọi điện cho Trần Văn T nhờ T đến nói chuyện cùng. Sau khi nhận được điện thoại của T, T rủ thêm Trần Văn H (N), Q (K), Q (C) cùng một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể) để đi tới quán Hắc Long. Sau đó, đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Triểu cùng với 03 đến 04 đối tượng khác đi trên 01 xe taxi Mai Linh loại 04 chỗ, mang theo dao, kiếm, tuýp sắt còn T, N, D và một số đối tượng khác đi trên 07 xe mô tô đi đến khu vực phố Cà, tổng số nhóm này có khoảng hơn 10 đối tượng. Sau khi gặp nhau ở khu vực phố Cà, cả nhóm đi đến trước cửa quán tạp hóa của gia đình ông Nguyễn Văn H cách quán Hắc Long khoảng 20m.
Lúc này, nhóm của Th có khoảng gần 20 đối tượng (gồm các đối tượng Th, Hùng, Trung, T2, T, Nguyễn Xuân B, Nguyễn Văn T, Phạm Văn S, Nguyễn Trung T, Nguyễn Văn C, Trần Trung D, Nguyễn Viết H, Bùi Văn L, Nguyễn Văn N, Trương Đức D, Hoàng Minh Đ và Lê Tiến Đ và một số đối tượng khác chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể) tập trung trước cửa quán Hắc Long ở khu vực mặt đường ĐH 495 thuộc thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm. Nhóm của Trương Đức Th và nhóm của Trần Văn Triểu, hò hét, chửi nhau. Sau đó, Th cầm vỏ chai bia, gạch, đá, đoạn gậy gỗ cuốn băng dính màu đen, T cầm gạch, đá, tuýp sắt, T2 cầm vỏ chai bia thủy tinh, xẻng, Tiến cầm hai nửa viên gạch đỏ cùng một số đối tượng khác cầm theo tuýp sắt, gạch, đá đuổi, ném về phía nhóm của T. Nhóm của T gồm D, N, T và một số đối tượng khác cũng cầm theo dao, tuýp sắt, gạch, đá ném về phía nhóm của Th. Hai bên ném nhau, song do ít người hơn nên nhóm của Triểu bỏ chạy về phía ngã ba đường liên thôn hướng đi xã Thanh Tâm, thì bị nhóm của Th cầm theo tuýp sắt, gạch, đá, vỏ chai bia thủy tinh đuổi theo và tiếp tục ném về phía nhóm của T. Trong quá trình ném nhau, một số đối tượng có mối quan hệ quen biết với nhóm của Th (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) khi đi qua thấy sự việc xảy ra cũng dùng gạch đá ném lại. Hậu quả: Trần Văn T bị rách da chảy máu cẳng chân phải; Nguyễn Văn N bị rách da sưng nề cánh tay phải; Trần Xuân T bị rách da cẳng chân phải; Vũ Tiến D bị xước da, bầm tím mặt ngoài cẳng chân phải, hai mũi bám dính vật chất màu đỏ đã khô nghi máu; Nguyễn Văn C bị sạt da, bầm tím mặt trước bụng, sạt da mặt trong cẳng tay phải; Lê Văn T bị rách da mặt ngoài ngón trỏ bàn tay phải; 01 biển quảng cáo của nhà ông Hùng bị hư hỏng trên diện (19x15,5)cm.
Khi thấy hai nhóm trên cầm tuýp sắt, dao, xẻng, gạch, đá, vỏ chai thủy tinh ném, đánh nhau và hò hét trên đoạn đường ĐH 495 khu vực ngã ba đường 495 và đường liên thôn trong đó có nhiều đối tượng xăm trổ, khiến ông Nguyễn Văn H là chủ quán tạp hóa, bà Bùi Thị M bán tạp hóa và chị Lại Thị T bán quần áo và một số hộ dân khác trên mặt đường ĐH 495 thuộc thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm hoang mang, sợ hãi phải đóng cửa.
Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai những người liên quan, tiến hành làm việc với đại diện UBND xã, Công an, hội phụ nữ xã Thanh Nguyên và Bí thư chi bộ thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên. Đại diện UBND và Công an, hội phụ nữ xã Thanh Nguyên và Bí thư chi bộ thôn Mai Cầu cho biết: vụ việc hai nhóm thanh niên hò hét, chửi nhau, dùng tuýp sắt, dao, xẻng, gạch, đá, vỏ chai thủy tinh đuổi ném, đánh nhau trên mặt đường ĐH 495, khu vực ngã ba đường 495 và đường liên thôn vào giờ tan tầm, có đông quần chúng đi lại, là khu dân cư đang sinh sống, gây mất an ninh, trật tự, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ; một số người tham gia giao thông không dám đi qua nơi xảy ra vụ việc. UBND xã Thanh Nguyên đề nghị Công an huyện Thanh Liêm điều tra xử lý nghiêm các đối tượng theo quy định của pháp luật.
* Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:
- Thu giữ tại hiện trường: một số mảnh vỡ thủy tinh màu trắng, mảnh to nhất có kích thước (3,4x1,6)cm; 02 (hai) mảnh gạch đỏ kích thước (10x5x3)cm; 01 (một) viên đá màu trắng không rõ hình, kích thước (9x5x3,5)cm; 01 (một) chiếc dép xốp;
01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 90B2-226...; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha đã qua sử dụng, không đeo biển kiểm soát; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 90B2-615...; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 90B2-649...; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 90F6- 2...; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 90H6-7...; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Cup BKS 29-...-P7.
- Thu giữ tại quán Hắc Long: 01 (một) tuýp sắt dài 70,5cm, đường kính 2,5cm, một đầu cuốn băng dính màu đen; 01 (một) tuýp sắt dài 79cm, đường kính 2,5cm, một đầu cuốn băng dính màu đen.
Ngoài ra, quá trình điều tra Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm còn sao lưu hình ảnh camera liên quan đến vụ việc, được lưu trong 01 (một) USB nhãn hiệu Kington 04GB và thu giữ: 01 (một) đoạn gỗ hình chữ nhật kích thước (22,5x4,5x2,5)cm, bên ngoài cuốn băng dính màu đen do Trương Đức Th tự nguyện giao nộp; 01 (một) quần bò màu đen 30 kích thước (101x40)cm, mặt trước phía dưới hai ống quần bám dính bùn đất, mặt sau ống quần bên phải bị rách dài 6cm, bờ mép sắc gọn hướng vết rách dọc theo ống quần, xung quanh vết rách có bám dính chất màu nâu nghi máu trên diện (18x7)cm do Trần Xuân T tự nguyện giao nộp; 01 (một) áo sơ mi dài tay đã cũ màu đen kẻ ngang màu xám xanh kích thước (68x40)cm, mặt trước ống tay áo bên phải bị rách dài 03cm, bờ mép nham nhở, điểm gần nhất cách cổ tay áo 16cm, cách đường chỉ bả vai áo 36cm do Nguyễn Văn N tự nguyện giao nộp; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký của xe mô tô BKS 90B2-615... do chị Hoàng Thị Ngọc A tự nguyện giao nộp; 01 (một) đăng ký xe mô tô BKS 90B2-649... mang tên Trần Thế T do Lê Văn T tự nguyện giao nộp; 01 (một) đăng ký xe mô tô BKS 90F6-7... mang tên Phan Thành Đ, 01 (một) hợp đồng mua bán xe máy giữa bên bán xe là ông Phan Thành Đ và bên mua xe là ông Nguyễn Minh V do ông Nguyễn Minh V tự nguyện giao nộp.
* Về xử lý vật chứng:
- Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Hoàng Thị Ngọc Ánh xe mô tô BKS 90B2-615...
cùng các giấy tờ liên quan; trả lại cho ông Nguyễn Minh V xe mô tô BKS 90F6-7...
cùng các giấy tờ liên quan.
- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave không đeo biển kiểm soát; 01 (một) xe mô tô BKS 90B2-649... cùng giấy tờ có liên quan; 01 (một) xe mô tô BKS 90F6-2...; 01 (một) xe mô tô BKS 29-...-P7 và 01 (một) quần bò: Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã tách ra tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau khi có đủ căn cứ.
* Về trách nhiệm dân sự:
- Đối với hư hỏng biển quảng cáo cửa hàng tạp hóa của gia đình ông Nguyễn Văn H: ông H không yêu cầu đề nghị bồi thường.
Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKSTL ngày 02/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố các bị cáo Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo va đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố các bị cáo Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58 (đối với tất cả các bị cáo), khoản 2 Điều 51 (đối với Trương Đức Th, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn T), Điều 38 (đối với Trương Đức Th, Nguyễn Văn N), Điều 65 (đối với Nguyễn Văn T), khoản 1 Điều 56 (đối với Trương Đức Th), các điều 91 và 101 (đối với Phạm Văn T2, Lê Văn T, Vũ Tiến D) của Bộ luật Hình sự - xử phạt Trương Đức Th từ 27 đến 33 tháng tù, tổng hợp với hình phạt 32 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của hai bản án từ 59 đến 65 tháng tù; Lê Văn T từ 18 đến 24 tháng tù; Phạm Văn T2 từ 18 đến 24 tháng tù; Vũ Tiến D từ 21 đến 27 tháng tù; Nguyễn Văn N từ 24 đến 30 tháng tù; Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng. Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy một số mảnh vỡ thủy tinh, 02 (hai) mảnh gạch đỏ, 01 (một) viên đá màu trắng, 01 (một) chiếc dép xốp, 02 (hai) tuýp sắt các loại, 01 (một) đoạn gỗ hình chữ nhật, 01 (một) áo sơ mi dài tay đã cũ; trả lại cho Nguyễn Văn N 01 (một) xe mô tô BKS 90B2-226...; lưu trong hô sơ vu an01 (một) USB nhãn hiệu Kington 04GB.
- Các bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
- Ngươi bao chưavà người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Văn T2: không có ý kiến gì về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
- Người đại diện hợp pháp đồng thời là người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: không có ý kiến gì về mặt tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ á,ncăn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tung tại phiên tò,aHội đồng xét xử nhận đinh như sa:u
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 15 giờ 30 phút ngày 01/4/2019, do xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân giữa Lê Văn T, Phạm Văn T2 và Vũ Tiến D ở khu vực ngã tư phố Cà, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, T2 đã hẹn D gọi người đến quán Hắc Long để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, tại khu vực đường ĐH 495 thuộc địa phận thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, nhóm của Trương Đức Th có khoảng gần 20 đối tượng trong đó có Th, T, T2 và một số đối tượng khác cầm theo dao, tuýp sắt, xẻng, gạch, đá, vỏ chai bia thủy tinh đứng hò hét, chửi bới với nhóm của Vũ Tiến D có khoảng hơn 10 đối tượng trong đó có D, Nguyễn Văn N, Trần Xuân T và một số đối tượng khác cũng cầm theo dao, tuýp sắt, gạch, đá. Sau đó, hai nhóm này dùng gạch đá, ném nhau. Do ít người hơn, nên nhóm của Vũ Tiến D bỏ chạy, Th đã cùng với T, T2, Tiến…và một số đối tượng khác cầm theo dao, tuýp sắt, xẻng, gạch, đá, vỏ chai bia thủy tinh đuổi theo, tiếp tục hò hét, chửi bới và dùng gạch, đá, vỏ chai bia thủy tinh ném về nhóm của Vũ Tiến D. Hậu quả: làm hư hỏng biển quảng cáo của gia đình ông Nguyễn Văn H, một số hộ dân khác trên mặt đường ĐH 495 thuộc thôn Mai Cầu, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm hoang mang, sợ hãi phải đóng cửa và một số người tham gia giao thông không dám đi qua nơi xảy ra vụ việc.
[3] Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phá vỡ trật tự nơi công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang lo sợ cho người dân sinh sống xung quanh khu vực và người đi đường. Bản thân các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, dùng hung khí gây rối trật tự công cộng. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
Đây là vụ án có nhiều đối tượng tham gia, song không phân công nhiệm vụ cụ thể, có tính chất tự phát, nên xác định đồng phạm giản đơn. Xét vai trò trong vụ án thấy: Vũ Tiến D gọi điện thoại cho các đối tượng đến và trực tiếp tham gia gây rối, Trương Đức Th là người tham gia đuổi đánh đầu tiên, nên giữ vai trò thứ nhất trong vụ án; các đối tượng khác giữ vai trò đồng phạm thứ hai trong vụ án.
Xét về nhân thân các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Về nhân thân: các bị cáo đều có nhân thân xấu.
Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo đều “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Trương Đức Th, Vũ Tiến D và Nguyễn Văn T có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được chính quyền địa phương xác nhận; bị cáo Trương Đức Th có bố đẻ là bệnh binh và có ông bà ngoại được tặng Huân, Huy chương kháng chiến; nên Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo này được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy:
- Đối với Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N: ngày 21/11/2019, Trương Đức Th bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 24 tháng tù về tội “Đánh bạc” và 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” chuyển đổi thành 08 tháng tù, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 32 tháng tù. Ngày 21/11/2019, Lê Văn T bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Phạm Văn T2 sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 01/4/2019 thì đến ngày 30/10/2019 lại bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau”. Vũ Tiến Dũng sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 01/4/2019 thì đến ngày 24/8/2019 bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh nhau” và ngày 26/9/2019, bị Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “đánh bạc”. Ngày 03/3/2020, Nguyễn Văn Ngọc bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và ngày 21/10/2019, bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam khởi tố về tội “Cướp tài sản”, trước đó Ngọc đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Qua đó thể hiện các bị cáo này coi thường pháp luật, có nhân thân rất xấu, không chịu cải tạo. Đối chiếu với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, thì các bị cáo này không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo này khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội, các bị cáo Vũ Tiến Dũng, Lê Văn T, Phạm Văn T2 là người dưới 18 tuổi; nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Đối với Nguyễn Văn T: bị cáo T đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng tính đến ngày phạm tội lần này đã quá nhiều năm; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy, thấy không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Văn H không yêu cầu bồi thường đối với hư hỏng biển quảng cáo cửa hàng tạp hóa, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô BKS 90B2-615... cùng các giấy tờ liên quan là tài sản hợp pháp của chị Hoàng Thị Ngọc Ánh; ngày 01/4/2019, chồng chị A là anh Vũ Văn V đã cho Trần Xuân T mượn chiếc xe trên. Xe mô tô BKS 90F6-7... cùng các giấy tờ liên quan là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Minh V; ngày 01/4/2019, ông V cho Vũ Tiến D mượn chiếc xe trên. Quá trình cho mượn xe, anh V và ông V đều không biết T và D sử dụng vào mục đích phạm tội. Vì vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã trả lại xe mô tô trên cho chị A và ông V là đúng pháp luật.
- Đối với xe mô tô BKS 90B2-226..., là tài sản hợp pháp của Nguyễn Văn N, không liên quan đến hành vi phạm tội; vì vậy, cần trả lại cho Nguyễn Văn N.
- Đối với một số mảnh vỡ thủy tinh, 02 (hai) mảnh gạch đỏ, 01 (một) viên đá màu trắng, 01 (một) chiếc dép xốp, 02 (hai) tuýp sắt các loại, 01 (một) đoạn gỗ hình chữ nhật, 01 (một) áo sơ mi dài tay đã cũ do không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) USB nhãn hiệu Kington 04GB lưu giữ hình ảnh liên quan đến vụ án, cần lưu trong hồ sơ vụ án.
[6] Các vấn đề khác:
- Đối với bị can Trần Xuân T: quá trình điều tra xác định T bỏ trốn khỏi nơi cư trú, gia đình và chính quyền địa phương không biết T đang ở đâu, làm gì. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định truy nã đối với T, đến nay chưa bắt được. Vì vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm tách vụ án, tiếp tục điều tra hành vi của bị can Trường để xử lý sau là có căn cứ.
- Đối với hành vi của Trần Văn T và các đối tượng khác có liên quan: do cần thiết phải củng cố chứng cứ để xem xét trách nhiệm hình sự của các đối tượng này, nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm tách ra để xử lý sau là có căn cứ.
- Đối với thương tích của Trần Văn T, Nguyễn Văn N, Trần Xuân T, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn C, Lê Văn T: các đối tượng này xác định do thương tích nhẹ nên không có đề nghị gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không giải quyết.
- Ngoài ra, quá trình điều tra có lời khai xác định Trương Đức Th cầm một vật giống súng, bắn phát ra tiếng nổ gây thương tích cho Trần Văn T. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã tập trung đấu tranh song Th không thừa nhận, chỉ khai nhận cầm 01 đoạn gậy gỗ hình chữ nhật dài khoảng 20cm cuốn băng dính màu đen, Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng; nên chưa đủ căn cứ xác định Th sử dụng súng. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau khi có đủ căn cứ là phù hợp.
[7] Về án phí: các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58 (đối với tất cả các bị cáo), khoản 2 Điều 51 (đối với Trương Đức Th, Vũ Tiến D Nguyễn Văn T), Điều 38 (đối với Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N), Điều 65 (đối với Nguyễn Văn T), khoản 1 Điều 56 (đối với Trương Đức Th), các điều 90, 91, 101 (đối với Phạm Văn T2, Lê Văn T, Vũ Tiến D), Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, 1. Tuyên bố: các bị cáo Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn Tiến phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
- Xử phạt bị cáo Trương Đức Th 27 (hai mươi bẩy) tháng tù, tổng hợp với hình phạt 32 (ba mươi hai) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của hai bản án là 59 (năm mươi chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/7/2019.
- Xử phạt bị cáo Vũ Tiến D 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bi bắt đi thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Phạm Văn T2 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bi bắt đi thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bi bắt đi thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bi bắt đi thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/6/2020).
Giao Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy một số mảnh vỡ thủy tinh, 02 (hai) mảnh gạch đỏ, 01 (một) viên đá màu trắng, 01 (một) chiếc dép xốp, 02 (hai) tuýp sắt các loại, 01 (một) đoạn gỗ hình chữ nhật, 01 (một) áo sơ mi dài tay đã cũ; trả lại cho Nguyễn Văn N 01 (một) xe mô tô BKS 90B2-226... (Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/5/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).
- Lưu trong hô sơ vu an01 (một) USB nhãn hiệu Kington 04GB.
3. Án phí: các bị cáo Trương Đức Th, Lê Văn T, Phạm Văn T2, Vũ Tiến D, Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 37/2020/HS-ST
Số hiệu: | 37/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về