Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 26/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2022/TLST-HS, ngày 15 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/HSST-QĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/HSST-QĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. NMT, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1988 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số A, đường B, phường C, quận D, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số E, phường F, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông G và bà H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 162/HSST ngày 19-12-2006 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử phạt 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; Bản án hình sự sơ thẩm số 77/HSST ngày 20- 6-2014 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích và 12 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt là 42 tháng tù; bị tạm giữ từ ngày 03-11-2021; tạm giam từ ngày 05-11-2021; có mặt.

2. VMT, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1986 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: Số I, đường J, phường K, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông L và bà M; có vợ là N, có ba con:

Con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 93/HSST ngày 08-11-2012 Tòa án nhân dân quận Hải An xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự hình sự phúc thẩm số 92/HSPT ngày 30-9-2004 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, 03 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và 24 tháng tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp hình phạt là 42 tháng tù và Bản án hình sự sơ thẩm số 53 ngày 21-4-2008 Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả xử phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giam từ ngày 06-10-2021; có mặt.

3. NNH, sinh ngày 17 tháng 12 năm 1995 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số O, phường P, quận Q, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số R, phường F, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông S (đã chết) và bà T; có vợ là NLC2, có ba con: Con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 06- 10-2021; có mặt.

4. DNT, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1996 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số U, phường V, quận Q, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số nhà W, phường V, quận Q, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông X (đã chết) và bà Y; có vợ là Z, có hai con: Con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 06-01- 2022 đến ngày 11-01-2022 được áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú; hiện tại ngoại; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo VMT, NNH và DNT: Ông AA và bà AB, Luật sư Công ty luật TNHH AC - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; đều có mặt.

- Người làm chứng: NLC1, NLC2, NLC3, NLC4, NLC5, NLC6, NLC7 và NLC8; đều có mặt. NLC9, NLC10, NLC11, NLC2, NLC12, NLC13, NLC14 và NLC15; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09-3-2021 NMT đến nhà hàng AD, số AE, Q, Hải Phòng để gặp NLC12, (sinh năm 1995, nơi cư trú: Số 73/20 B, AF, D) nói chuyện giảng hòa về mâu thuẫn giữa hai người xảy ra trước đó. Khi đi NMT đi cùng NLC1 (sinh năm 1980, nơi cư trú: Số AG, AH, AI); NLC9 (sinh năm 1994; nơi cư trú: Số AJ, D) và rủ thêm NLC10; NLC11; NNH rủ thêm AK; AL; AL rủ thêm AM. Cả nhóm đi cùng NMT tới nhà hàng AD với mục đích để ăn tối và gặp NLC12 để nói chuyện. Khoảng 21 giờ NMT cùng cả nhóm tới nơi, NMT đi trước và vào phòng số 09, tầng 4 là nơi NLC12 đang dự sinh nhật. Trong lúc nói chuyện giữa NMT và NLC12 xảy ra cãi chửi nhau, NMT cầm một chiếc cốc thủy tinh ném về phía NLC12 đang ngồi ăn trong phòng thì bị một số người bên nhóm NLC12 gồm VMT, DNT đuổi theo ra ngoài sảnh tầng 4. VMT dùng tay tát vào mặt NMT, NMT chạy đến khu vực cầu thang máy tầng 4 thì tiếp tục bị VMT dùng tay túm lại đánh; còn DNT dùng cốc và chai thủy tinh ném về phía nhóm của NMT. NMT bỏ chạy xuống vỉa hè trước cửa nhà hàng AD lấy được một cây giáo chổi quay lại để đánh nhau với nhóm của VMT và DNT. Khi NMT cầm giáo chổi quay lại đến sảnh tầng 2 nhà hàng AD thì bị VMT, DNT và NNH (là người bên nhóm của VMT) chặn lại. VMT và NNH giằng co giáo chổi với NMT, còn DNT cầm bình cứu hỏa của quán đáp về phía NMT nhưng không trúng. Khi bị NNH giằng được giáo chổi thì NMT bỏ chạy ra đường AO. NNH cầm giáo chổi, DNT cầm cốc thủy tinh, cùng với VMT tiếp tục đuổi theo NMT và NNH. Trên đoạn đường AO, NMT bị VMT kéo áo ngã và bị NNH dùng giáo chổi đập vào người, NMT vùng dậy bỏ chạy được. Nhóm của VMT tiếp tục đuổi theo NNH tới khu vực đường AP đoạn trước cổng Bệnh viện AQ thì đuổi kịp; VMT dùng tay ghì cổ và đánh NNH bằng tay chân còn DNT và NNH dùng điếu cày đánh nhiều nhát vào chân và người NNH. Sau đó người dân vào can ngăn nên các đối tượng giải tán, còn NNH được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện AR.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 127/2021/TgT ngày 30- 3-2021 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng kết luận: NLC10 bị thương tích giảm 01% sức khỏe. Hiện NNH vắng mặt tại nơi cư trú và chưa có đơn đề nghị xử lý hình sự các đối tượng đã gây thương tích cho NNH.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐGTS ngày 05-10-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Q kết luận: Giá trị tài sản bị thiệt hại của nhà hàng AD do các đối tượng dùng vỏ chai bia, cốc thủy tinh ném nhau gây ra là 2.476.000 đồng.

Ngày 26-3-2021 Uỷ ban nhân dân phường Hoàng Văn Thụ đã có công văn đề nghị xử lý nghiêm các đối tượng trên về hành vi gây rối trật tự công cộng tại đoạn đường AO trước cửa nhà hàng AD ra đến đoạn đường AP trước cổng Bệnh viện AQ xảy ra vào tối ngày 09-3-2021.

Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Gây rối trật tự công cộng, ngày 06-10-2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hồng Bàng đã bắt tạm giam đối với VMT, NNH; ngày 03-11-2021 NMT bị bắt theo lệnh truy nã; ngày 06-01- 2022 DNT đã đến Công an quận Hồng Bàng đầu thú.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với những thiệt hại về tài sản của nhà hàng AD, đại diện nhà hàng đã có văn bản nêu ý kiến không yêu cầu bồi thường nên không xem xét. Đối với thương tích của NNH do NNH không có đơn đề nghị về việc bồi thường nên không có căn cứ xem xét, giải quyết.

Về vật chứng, tài liệu thu giữ: Sau khi xảy ra vụ việc Cơ quan điều tra đã truy tìm một chiếc giáo chổi và hai chiếc điều cày là hung khí các bị cáo sử dụng để xô sát nhau nhưng không thu giữ được do các bị cáo đã vứt đi. Đối với các mảnh chai, cốc thủy tinh bị vỡ nhân viên nhà hàng đã thu gom bỏ đi nên cũng không thu giữ được. Quá trình khám xét nhà bị cáo VMT, Cơ quan điều tra thu giữ được một áo phông trắng là chiếc áo VMT đã mặc vào tối 09-3-2021 hôm xảy ra sự việc.

Cáo trạng số 12/CT-VKSHB ngày 11-02-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố các bị cáo: NMT, VMT, NNH và DNT về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo NMT, NNH và DNT đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố.

Bị cáo VMT ban đầu khai chỉ tham gia việc cùng bị cáo NNH giằng co chiếc giáo chổi của bị cáo NMT và sau đó có tham gia truy đuổi NNH đến cổng Bệnh viện AQ thì bắt giữ được và có đánh NNH một cái rồi sau đó do NNH bỏ chạy nên cả nhóm đi cùng VMT đã bỏ về quán AD. Nhưng sau khi được trực tiếp xem các video trình chiếu công khai tại phiên tòa và trả lời các câu hỏi do Kiểm sát viên đặt ra thì bị cáo VMT đã khai và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình về việc biết các đồng phạm khác dùng chai, cốc thủy tinh, bình chữa cháy để tấn công nhóm của bị cáo NMT tại nhà hàng AD thì bị cáo có tham gia việc xô sát và truy đuổi nhóm của NMT và NNH từ tầng 2 xuống tầng 1 của nhà hàng và sau đó chạy đuổi nhau dọc theo tuyến phố AO rẽ ra đường AP và đến trước cửa Bệnh viện AQ thì có hành vi bắt giữ và cùng các bị cáo NNH và DNT hành hung NLC10 vào thời gian và địa điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Ngưi bào chữa cho các bị cáo VMT, NNH và DNT thống nhất trình bày: Nhất trí về tội danh áp dụng đối với các bị cáo như truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nguyên nhân xảy ra sự việc và hành vi bột phát bị kích động về tâm lý trong hoàn cảnh bữa tiệc sinh nhật của gia đình bị phá hỏng và những người thân trong gia đình bị thương tích do hành vi vi phạm của nhóm đi cùng bị cáo NMT đã gây ra. Do vậy đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với cả ba bị cáo: VMT, NNH và DNT. Ngoài ra bị cáo NNH có ông nội là thương binh hạng 4/4 nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bản thân các bị cáo đều là lao động chính nuôi vợ và các con nhỏ nên đề nghị giảm nhẹ về hình phạt cho các bị cáo. Trên cơ sở phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo NNH và bị cáo DNT được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo NMT từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 03-11-2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo: VMT từ 36 đến 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 06-10-2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo: NNH từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 06-10-2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo: DNT từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

Các bị cáo đều phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong vụ án này có đối tượng NLC10 bị đánh gây thương tích giảm 01% sức khỏe, hiện NNH vắng mặt tại nơi cư trú và không có đơn đề nghị xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý về tội Cố ý gây thương tích.

Quá trình xô xát giữa VMT, DNT, NNH với NMT, các đối tượng đi cùng NMT đều bỏ chạy và không tham gia đánh nhau vì vậy không có căn cứ xử lý đối với các đối tượng này.

Đối với một số đối tượng bên nhóm của VMT cũng có hành vi dùng chai, cốc ném nhóm của NMT, nhưng hiện chưa xác minh được lai lịch nên Cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Tại phiên tòa, người làm chứng là: NLC9, NLC10, NLC11, NLC2, NLC12, NLC13, NLC14, NLC15; đều vắng mặt không có lý do. Xét thấy, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; các bị cáo và người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến gì; Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người làm chứng do trước đó những người này đều đã có lời khai tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt đối với người làm chứng.

- Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[3] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 09-3-2021 các bị cáo VMT, NNH, DNT và NMT đã có hành vi la hét, chửi bới, dùng chai, cốc thủy tinh ném nhau trong nhà hàng AD vào thời điểm đông người đang có mặt và dùng giáo chổi, điếu cày đuổi đánh nhau dưới lòng đường AO kéo dài đến lòng đường AP khu vực trước của Bệnh viện AQ, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm tôi “Gây rối trật tự công cộng” được quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến các quy định của Nhà nước về trật tự an toàn nơi công cộng, gây mất trật tự trị an tại khu địa phương nơi xảy ra sự việc. Do vậy, hành vi của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật để giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

- Về tính tiết định khung hình phạt:

[5] Các bị cáo đã sử dụng chai, cốc bằng thủy tinh, bát đĩa bằng sành sứ để ném và tấn công nhau gây thiệt hại về tài sản của nhà hàng AD qua định giá tài sản trị giá khoảng 2.476.000 đồng và sau đó tiếp tục có hành vi rượt đuổi trên đường giao thông và hành hung nhau nên hành vi của các bị cáo bị coi là “dùng hung khí hoặc có hành vi phá phách...” vi phạm điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo DNT đã tự ra đầu thú; bị cáo NNH có ông nội (ông Nguyễn Văn Trường) là thương binh loại A hạng 4/4; bị cáo NMT có bố đẻ (ông G) là thương binh loại A hạng 1/8, nên các bị cáo NNH, DNT và NMT đều được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo NMT, NNH và DNT đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo VMT nhân thân có một tiền án chưa được xóa án: Bản án hình sự sơ thẩm số 93/HSST ngày 08-11-2012 Tòa án nhân dân quận Hải An xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về vai trò của các bị cáo trong vụ án và áp dụng hình phạt:

[8] Trong vụ án, bị cáo NMT là người có sự việc cá nhân là nguyên nhân trực tiếp để xảy ra mâu thuẫn với nhóm của các bị cáo VMT, NNH và Nguyễn DNT. Bản thân bị cáo thực hiện hành vi không có đồng phạm. Nhân thân bị cáo đã có hai tiền án đều đã được xóa án như đã nêu trong phần căn cước của bị cáo nên lần phạm tội này cần cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[9] Còn đối với nhóm của các bị cáo VMT, NNH và Nguyễn DNT tuy không có sự bàn bạc từ trước nhưng khi bị NMT và nhóm người đi cùng tấn công đã cùng nhau có hành vi tấn công, xô xát trở lại với nhóm của NMT. Bị cáo VMT là người có hành vi tích cực nhất, trực tiếp giằng co giáo chổi, trực tiếp xô sát với NMT và sau đó tiếp tục rượt đuổi nhóm của NMT từ Nhà hàng AD đến khu vực trước cửa Bệnh viện AQ thì khống chế được NLC10. Bị cáo VMT đã dùng tay, chân hành hung NLC10. Các bị cáo DNT và NNH là người cùng có hành vi xô sát với NMT tại Nhà hàng AD cùng giúp sức với bị cáo VMT và sau đó cùng tham gia đuổi đánh nhóm của bị cáo NMT. Các bị cáo đã có hành vi cùng tham gia dùng tay chân, điếu cày bằng Inox và điếu cày bằng tre đánh gây thương tích cho NNH. Do vậy cần đánh giá bị cáo VMT có vai trò chính so với các bị các đồng phạm khác là NNH và DNT. Bị cáo VMT nhân thân có một tiền án chưa được xóa án như đã nêu trong phần căn cước nên lần này phạm tội cần cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[10] Còn đối với bị cáo NNH và DNT tham gia với vai trò đồng phạm thực hành tích cực và giúp sức cho bị cáo VMT trong việc tấn công nhóm của bị cáo NMT do vậy tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo NNH và DNT là ngang nhau và thấp hơn so với bị cáo VMT.

[11] Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã triệu tập bị cáo NNH nhiều lần nhưng bị cáo không chấp hành, gây cản trở hoạt động tố tụng nên Cơ quan điều tra đã phải ra lệnh bắt để tạm giam. Do vậy cần tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[12] Đối với bị cáo DNT không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội đã ra đầu thú tại cơ quan điều tra, bị cáo phạm tội lần đầu như đã phân tích ở trên. Mặt khác, xét bị cáo hiện đang được tại ngoại và có nơi cư trú rõ ràng, nên thấy không cần thiết phải buộc bị cáo phải cách ly xã hội mà chỉ cần cho bị cáo được hưởng án treo, được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục và đấu tranh phòng ngừa chung.

[13] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình xô sát và đánh nhau, nhóm của NMT và nhóm của VMT đã sử dụng bát đĩa, cốc, chai thủ tinh, bình cứu hỏa và một số vật dụng khác của Nhà hàng AD để ném nhau làm hư hỏng một số tài sản của Nhà hàng AD, qua định giá đã xác định các tài sản bị thiệt hại trị giá khoảng 2.476.000 đồng. Đại diện nhà hàng đã có văn bản nêu ý kiến không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[14] Trong vụ án này có NLC10 bị đánh gây thương tích giảm 01% sức khỏe, hiện NNH vắng mặt tại nơi cư trú và không có đơn đề nghị xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý về tội Cố ý gây thương tích.

[15] Quá trình xô xát giữa VMT, DNT, NNH với NMT, các đối tượng đi cùng NMT đều bỏ chạy và không tham gia đánh nhau vì vậy không có căn cứ xử lý đối với các đối tượng này.

[16] Đối với một số đối tượng bên nhóm của VMT cũng có hành vi dùng chai, cốc ném nhóm của NMT, nhưng hiện chưa xác minh được lai lịch nên Cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[17] Về án phí: Các bị cáo đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo NMT 30 (ba mươi) tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 03-11- 2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo VMT 33 (ba mươi ba) tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 06-10-2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo NNH 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 06-10-2021).

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo DNT 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án về tội "Gây rối trật tự công cộng".

Giao bị cáo DNT cho Uỷ ban nhân dân phường V, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo DNT có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách của án treo, DNT cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc DNT phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 45, điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo DNT.

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo: NMT, VMT, NNH và DNT đều phải nộp mỗi người 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích về chế định án treo đối với bị cáo DNT)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về