Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 147/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 147/2022/HS-PT NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Trần Văn Mỹ và các đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Văn M, sinh ngày: 16/11/1991 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lái xe; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn K (chết) và bà Võ Thị S, sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 31/8/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm kể từ ngày 31/8/2020 về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” (tại Bản án số 08/2020/HS-ST).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Đình Ph, sinh ngày 10/04/1996 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Phụ xe; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1966 và bà Trần Thị A, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

3. Lý Ngọc Th, sinh ngày 04/10/1992 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Buôn bán; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lý Ngọc S, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Trần Thị Diễm L, sinh năm 1995 và có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

4. Lê Nhật Mi, sinh ngày 02/01/1996 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Công nhân; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn B, sinh năm 1970 và bà Lý Thị T, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/3/2019, bị Công an huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép” (chấp hành xong ngày 08/3/2019).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Văn P, sinh ngày 14/8/1996 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1964 và bà Ngô Thị L, sinh năm 1966; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1997 và có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho các bị cáo Trần Văn M, Lý Ngọc Th, Lê Nhật Mi và Nguyễn Đình Ph: Luật sư Nguyễn Thành Q - Văn phòng Luật sư Thành Q và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam (Địa chỉ: Số 08 Trần Thị Lý, phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 20/02/2021, anh Đỗ Vũ Mạnh T điều khiển xe ô tô khách biển kiểm soát (BKS): 81F1-000.48 của nhà xe An Phát chạy tuyến Gia Lai - Hà Nội. Trên xe lúc này còn có anh Hoàng Trọng C là nhân viên lái xe và anh Đặng Văn H là phụ xe cùng 28 hành khách.

Đến 19 giờ cùng ngày, khi xe đang trên đường Quốc lộ 1A đoạn qua huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam thì có 02 hành khách đứng bên đường vẫy tay nên anh T cho xe dừng lại đón 02 hành khách lên xe. Cùng lúc này, Trần Văn M điều khiển xe ô tô khách BKS 43B-045.19 của nhà xe Kim Liên chạy cùng chiều phía sau xe ô tô khách BKS 81F-000.48 của nhà xe An Phát, trên xe có Nguyễn Đình Ph là phụ xe. Khi thấy xe ô tô khách An Phát bắt khách dọc đường thì M điều khiển xe chạy lên song song với xe ô tô khách An Phát và nói: “Mấy anh chạy xe đường dài tại sao bắt khách đường ngắn, để tụi em kiếm miếng cơm”, nghe vậy anh Đặng Văn Hào nói lại: “Xe em xe khách, ai đón xe em thì em chở thôi”.

Hai bên có lời qua tiếng lại, anh H cầm cây sắt đứng bên cửa xe ô tô khách An Phát chỉ về phía Mỹ, tỏ thái độ thách thức. Lúc này, Mỹ gọi điện thoại cho Lý Ngọc T nói về việc bị nhà xe An Phát tranh giành khách và hăm dọa. Mỹ nói T mang theo hung khí lên ngã ba Tuần Dưỡng, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam chờ Mỹ. Sau khi nghe điện thoại của M, T rủ Lê Nhật Mi đi cùng. Khi đi, T mang theo 01 (một) đoạn tuýp sắt hình trụ tròn, dài khoảng 40cm và 01 (một) con dao tự chế, lưỡi dao bằng sắt có hình răng cưa, cán bằng gỗ dài khoảng 60cm (là dụng cụ chặt đá trong quán cà phê của Thái) rồi điều khiển xe máy (xe này của Minh và hiện đã bán cho người khác) chở Minh đến ngã ba Tuần Dưỡng đợi M đến. Nguyễn Đình Ph gọi điện thoại cho Nguyễn Văn P nói về việc bị nhà xe An Phát hăm dọa đánh, rủ P ra ngã ba Tuần Dưỡng hỗ trợ đánh nhau thì P đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe máy đi ra ngã ba Tuần Dưỡng đợi Ph.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi xe ô tô khách An Phát BKS 81F-000.48 do anh T điều khiển đi đến đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc thôn An Dưỡng, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam thì Mỹ điều khiển xe ô tô BKS 43B-045.19 vượt lên phía trước xe ô tô khách An Phát và dừng lại nên ép xe ô tô khách An Phát phải dừng lại ở giữa 2 làn đường hướng Tam Kỳ - Đà Nẵng (vị trí 02 xe dừng ở giữa hai làn đường của phần đường hướng Tam Kỳ - Đà Nẵng). Sau khi dừng xe, Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph xuống xe cùng với Lê Nhật Mi, Lý Ngọc T và Nguyễn Văn P xông lên xe ô tô khách An Phát. M cầm 01 tuýp sắt (do Thái đưa), Thái cầm 01 dao tự chế, còn M, Ph và P không cầm theo hung khí gì. Khi thấy xe bị chặn dừng lại, anh Đặng Văn H bỏ chạy về phía đuôi xe, cởi áo đồng phục của nhà xe An Phát ra và mượn áo khoác của khách trên xe mặc vào, nằm trên giường giả làm hành khách. Lúc này phía sau xe An Phát không có điện nên M, Ph, Mi, Thái, P không tìm được anh H. M hỏi anh Đỗ Vũ Mạnh T và anh Hoàng Trọng C: “Thằng kia đâu rồi”, anh C trả lời: “Không biết” thì M nói: “Mày đi cùng với nó tại sao mày không biết”, vừa nói M vừa dùng tay đánh vào mặt anh C nhiều cái. T cầm dao tự chế trên tay phải và yêu cầu anh H bước ra nhưng anh H không dám ra nên quay lại dùng chân đạp vào người anh T nhiều cái. Ph dùng tay đánh vào vùng đầu anh T nhiều cái và rút chìa khóa xe.

Mi đứng phía sau cầm tuýp sắt giơ lên đánh vào người anh T nhiều cái rồi xuống xe. P lên sau, do bị cản bởi M, Ph đứng phía trước nên P trườn tới dùng tay kéo đầu anh T 01 cái rồi thả ra và xuống xe. M yêu cầu anh T bật điện lên để tìm anh H, anh T trả lời: “Bị rút chìa khóa rồi”. M bảo: “Đưa chìa khóa cho hắn bật điện lên”. P lên xe đưa chìa khóa cho anh T, nhưng do hoảng sợ nên anh T làm rơi chìa khóa xuống sàn xe không bật điện lên được. Không thấy điện sáng, M bực tức nên quay lại dùng tay đánh vào mặt anh T nhiều cái, vừa đánh vừa có lời lẽ hăm dọa anh T. Th giơ chân phải lên đạp anh T 01 cái. Sau đó, cả nhóm xuống xe, Th quay lại dùng dao chỉ vào mặt anh T hăm dọa rồi bước xuống xe.

Sau đó, M và Ph điều khiển xe ô tô khách Kim Liên tiếp tục hành trình về Đà Nẵng còn T, P và Mi cũng bỏ đi. Thời gian Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph dừng xe ô tô khách Kim Liên và cùng với Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th và Nguyễn Văn P chặn xe ô tô khách An Phát lại để cả nhóm cầm hung khí lên xe gây gỗ, đánh các anh Đỗ Vũ Mạnh T, Hoàng Trọng C khoảng trên 10 phút. Do 02 xe đỗ ở giữa 02 làn đường xe chạy nên các phương tiện lưu thông qua vị trí này với tốc độ rất chậm. Sau khi M, Ph, Th, Mi, P bỏ đi, anh T và anh C không tìm thấy chìa khóa xe nên cùng hành khách đẩy xe tấp vào lề đường bên phải rồi gọi thợ sửa xe đến để phá khóa. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Công an xã Bình An, huyện Thăng Bình đến hiện trường lập biên bản sự việc. Anh Đỗ Vũ Mạnh T và anh Hoàng Trọng C không có yêu cầu gì và hành khách trên xe đề nghị cho xe đi để đảm bảo hành trình. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày xe ô tô An Phát tiếp tục hành trình chở khách ra phía Bắc.

Sự việc trên được camera gắn trong xe ô tô khách của nhà xe An Phát BKS:

81F-000.84 ghi lại, ngày hôm sau được đưa lên mạng xã hội và được báo chí đưa tin (báo viết, báo hình và báo điện tử). Qua theo dõi trạng thái độc giả của báo chí, người theo dõi, kết nối các trang mạng xã hội tỏ ra phẫn nộ, bức xúc về hình ảnh nhóm đối tượng thanh niên hành hung đối với lái xe ôtô khách BKS 81F-000.48 vào tối ngày 20/02/2021 tại đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc thôn An Dưỡng, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Tại Bản giám định thương tích số 82/GĐTT.21 ngày 11/03/2021 của Trung tâm Giám định Pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận: Anh Đỗ Vũ Mạnh Tuấn bị tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên người bệnh nhân là tình trạng đau da và cơ; không tổn thương xương, không thấy dấu hiệu thần kinh khu trú. Tỷ lệ thương tích tại thời điểm giám định là: 0% (Không phần trăm).

Anh Hoàng Trọng C không bị thương tích gì. Anh Đỗ Vũ Mạnh T và Hoàng Trọng C có đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi gây thương tích của Trần Văn M, Lý Ngọc Th, Nguyễn Đình Ph, Nguyễn Văn P và Lê Nhật Mi.

Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo: Trần Văn M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Áp dụng Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này là 24 tháng tù với Bản án số 08/2020/HSST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt Trần Văn M 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo trở thành 18 tháng tù giam. Hình phạt chung của hai bản án buộc bị cáo Trần Văn M phải chấp hành là 42 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Đình Ph 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Bị cáo Lý Ngọc Th 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Bị cáo Lê Nhật Mi từ 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Văn P 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Vào các ngày 17 và 20/01/2022, các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời, đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo Trần Văn M 24 tháng tù; các bị cáo Nguyễn Đình Ph, Lý Ngọc Th mỗi bị cáo 20 tháng tù và các bị cáo Lê Nhật Mi, Nguyễn Văn P mỗi bị cáo 18 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Riêng bị cáo Trần Văn M phạm tội trong thời gian thử thách án treo, nên tổng hợp hình phạt của Bản án số 08/2020/HSST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt Trần Văn M 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, buộc bị cáo Trần Văn M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 42 tháng tù. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm. Đối với bị cáo Nguyễn Văn Ph cung cấp chứng cứ mới là: Đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân đang trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ bị ốm đau, cha bị bệnh thoái hóa khớp háng đi lại khó khăn; mẹ bị ung thư đại tràng giai đoạn cuối, có con còn nhỏ dưới hai tuổi, bản thân là lao động chính trong gia đình (nội dung đơn có xác nhận của chính quyền địa phương), đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

- Ý kiến của người bào chữa cho các bị cáo Trần Văn M, Lý Ngọc Th, Lê Nhật Mi và Nguyễn Đình Ph:

Do mâu thuẫn từ việc tranh giành hành khách, nên các bị cáo rủ nhau đi đánh nhóm lái xe của nhà xe An Phát, khi đánh cũng chỉ đánh trên xe, không gây ra thương tích gì, không gây ách tắc giao thông, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Cấp sơ thẩm căn cứ vào các thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, mọi người bình luận để cho rằng các bị cáo gây ra hậu quả làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là không có cơ sở. Mặc dù các bị cáo nhận tội, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh đối với các bị cáo, xem xét chuyển hình phạt nhẹ hơn cho các bị cáo.

Các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lý Ngọc Th và Lê Nhật Mi thống nhất ý kiến của người bào chữa, không bổ sung gì thêm. Tuy nhiên, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Văn P thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thống nhất với bản cáo trạng và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Xét việc kháng cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên kháng cáo của các bị cáo là hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung vụ án nêu trên. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/02/2021, trên đoạn đường Quốc lộ 1A, đoạn qua huyện Núi Thành, Quảng Nam, từ việc Trần Văn M (điều khiển xe ô tô khách biển số 43B-045.19 của nhà xe Kim Liên – Đà Nẵng) cho rằng Đỗ Vũ Mạnh T (điều khiển xe ô tô khách biển số 81F-000.48 của nhà xe An Phát – Gia Lai), giành hành khách, nên phát sinh mâu thuẫn giữa lái xe và phụ xe của hai nhà xe. Trần Văn M điện thoại rủ Lý Ngọc Th (em rễ) đem theo hung khí đến ngã ba Tuần Dưỡng (Thăng Bình) để đánh lại nhà xe An Phát. Nguyễn Đình Ph (phụ xe của nhà xe Kim Liên) cũng điện thoại rủ Nguyễn Văn P đến đánh nhà xe An Phát tại ngã ba Tuần Dưỡng; Lý Ngọc Th chuẩn bị một con dao và 01 cây tuýp sắt và rủ Lê Nhật Mi cùng đi. Khi đến ngã ba Tuần Dưỡng, M điều khiển xe vượt qua xe An Phát, chặn đầu xe An Phát rồi dừng lại giữa hai làn đường theo hướng Tam Kỳ - Đà Nẵng, buộc xe An Phát cũng phải dừng theo, bên làn đường có dải phân cách. Lúc này, Trần Văn M cùng đồng phạm leo lên xe, la hét và dùng hung khí dao đe dọa, dùng tuýp sắt, tay và chân đánh nhiều cái và nhiều lần vào người của anh Đỗ Vũ Mạnh T, Hoàng Trọng C. Hành vi của các bị cáo đã gây mất trật tự giao thông, cản trở lưu thông vận chuyển hành khách của nhà xe An Phát, ảnh hưởng đến giao thông của các phương tiện giao thông khác trên đoạn đường Quốc lộ 1A, ảnh hưởng xấu tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội (sau khi sự việc xảy ra, các phương tiện truyền thông báo chí các loại đã đưa lại đoạn video sự việc gây bất bình trong nhân dân).

Xét ý kiến của người bào chữa thì thấy: Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến của Người bào chữa. Bởi lẽ: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo Trần Văn M và đồng phạm đã rủ rê, phân công nhiệm vụ, chuẩn bị hung khí và địa điểm, rồi ngang nhiên dùng phương tiện là ô tô khách Kim Liên, chặn đầu xe ô tô khách An Phát ngay trên quốc lộ 1A (đây là con đường giao thông huyết mạch của đất nước, nơi công cộng quốc gia), cả hai xe dừng ngay giữa hai làn đường, gây cản trở giao thông. Sau đó, xông lên xe An Phát, la hét, dùng dao, tuýp sắt, chân tay đánh nhiều lần vào tài xế của nhà xe An Phát, gây hoảng loạn cho hành khách trên xe và náo loạn khu vực này, nhiều người dân kéo ra chứng kiến sự việc, phương tiện giao thông qua đoạn đường này gặp trở ngại nên phải đi chậm. Qua ngày hôm sau, các phương tiện truyền thông báo chí các loại đồng loạt đưa tin sự việc, gây bất bình trong nhân dân.

Hành vi của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đã kết án các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo của các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P:

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt Trần Văn M 24 tháng tù; Nguyễn Đình Ph và Lý Ngọc Th mỗi bị cáo 20 tháng tù; Lê Nhật Mi và Nguyễn Văn P mỗi bị cáo 18 tháng tù, là có căn cứ.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo M, Ph, Th và Mi không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo M, giảm hình phạt cho các bị cáo M, Ph, Th và Mi.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn P: Trong vụ án này bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, không tích cực như các bị cáo khác. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm chứng cứ mới: Đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân đang trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ bị ốm đau, cha bị bệnh thoái hóa khớp háng đi lại khó khăn; mẹ bị ung thư đại tràng giai đoạn cuối, có con còn nhỏ dưới hai tuổi, bản thân là lao động chính trong gia đình (nội dung đơn có xác nhận của chính quyền địa phương), đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có vai trò thứ yếu, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo thành khẩn nhận tội. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th và Nguyễn Văn P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 - Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th, Nguyễn Văn P phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo: Trần Văn M 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.

Áp dụng Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt 21 tháng tù của bản án này với hình phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo chuyển thành 18 tháng tù giam tại Bản án số 08/2020/HSST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Buộc bị cáo Trần Văn M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

- Áp dụng: Điểm a, b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Đình Ph 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo: Lý Ngọc Th 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo: Lê Nhật Mi từ 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn P 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Các bị cáo Trần Văn M, Nguyễn Đình Ph, Lê Nhật Mi, Lý Ngọc Th và Nguyễn Văn P không phải chịu tiền án phí phúc thẩm.

3. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 30/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 147/2022/HS-PT

Số hiệu:147/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về