TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 13/2023/HS-PT NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 16 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 135/2022/TLPT- HS, ngày 24 tháng 10 năm 2022 do có kháng cáo của các bị cáo Lê Tuấn V, Đào Mạnh Tr, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L và Nguyễn Văn S đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh.
* Các bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Lê Tuấn V; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10/05/1988; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố C,phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Lê Đình T (đã chết); Con bà: Trần Thị H, sinh năm: 1970; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Nguyễn Thị Hồng N; Nghề Nghiệp: Lao động tự do; Trú quán: Tổ dân phố C, phường H, thị xã K, Hà Tĩnh; Con có 03 đứa, đứa lớn sinh năm 2008, đứa nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh kể từ ngày 04/11/2021 đến nay (có mặt).
2. Họ và tên: Đào Mạnh T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22/03/2002; Nơi đăng ký HKTT: Thôn N, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Đào Mạnh P, sinh năm:1979; Con bà: Lê Thị T, sinh năm: 1981; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 05/10/2021, đến ngày 30/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lãnh tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An (có mặt).
3. Họ và tên: Nguyễn Xuân T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 08/ 04/ 19xx; Nơi đăng ký HKTT: Thôn 9, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông:Nguyễn Xuân T (đã chết); Con bà:Nguyễn Thị T (đã chết); Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm:1998; Con: 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2016, đứa nhỏ sinh năm 2020; Tiền án,tiền sự: Không;
Quá trình nhân thân: Ngày 30/03/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1, Điều 138 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, tại bản án số 17/2011/HHST; đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích;
Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 05/10/2021, đến ngày 08/10/2021 khởi tố bị can áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An cho đến nay (có mặt).
4. Họ và tên: Ma Văn L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 12/06/1987; Nơi đăng ký HKTT: Thôn 4, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Ma Văn N, sinh năm:1956; Con bà:Nguyễn Thị T, sinh năm: 1960; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Dương Thị Tu (đã ly hôn); Con: 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2014, đứa nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Năm 2016, buôn bán hàng cấm bị khởi tố theo Quyết định khởi tố bị can số 20, ngày 19/12/2016 của Công an huyện D, tỉnh Nghệ An, do sự thay đổi chính sách pháp luật nên ngày 29/6/2017 Viện Kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An ra Quyết định đình chỉ Điều tra số 03/2016/QĐ-VKS.
Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 05/10/2021, đến ngày 08/10/2021 khởi tố bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An cho đến nay (có mặt).
5. Họ và tên: Nguyễn Văn S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 01/01/2002; Nơi đăng ký HKTT: thôn K, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Nguyễn Xuân T, sinh năm:1973; Con bà: Lê Thị L, sinh năm 1976; Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 05/10/2021, đến ngày 08/10/2021 khởi tố; bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An cho đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Tuấn V: Ông Nguyễn Khắc T, Luật sư – Văn phòng Luật sư A thuộc Đoàn Luật sư Hà Tĩnh (có đơn xin xét xử vắng mặt) * Các bị cáo không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo của các bị cáo kháng cáo nên Tòa án không triệu tập gồm:
1. Họ và tên: Trần Ngọc S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 20/03/1990; Nơi đăng ký HKTT: thôn H, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
2. Họ và tên: Thái Bá K; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 25/09/1990; Nơi đăng ký HKTT: thôn 2, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
3. Họ và tên: Lê Hồng S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 20/11/19xx; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 1, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
4. Họ và tên: Cao Văn L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 23/07/1996; Nơi đăng ký HKTT: thôn 1, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
5. Họ và tên: Đặng Hồng T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 23/09/1998; Nơi đăng ký HKTT: thôn 7, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do.
Trong vụ án này còn có 06 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, 03 người làm chứng nhưng không liên quan đến nội dung kháng cáo của các bị cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 25 phút ngày 02 tháng 10 năm 2021, Lê Tuấn V đi xe mô tô trên đường về nhà thì xe ô tô của Nguyễn Xuân T đi qua nên Lê Tuấn V bị ngã. Lê Tuấn V cho rằng Nguyễn Xuân T điều khiển xe ô tô ôm cua làm mình bị ngã, nên đã cầm theo 02 con dao (dao thứ nhất dài 26cm, cán bằng gỗ dài 11cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 15cm, dao thứ 2 dài 28cm, cán bằng nhựa dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 16cm) đi đến Công ty T, ở ngõ 15, đường Quốc lộ 12C, thuộc tổ dân phố 3, phường H, thị xã Kỳ, tỉnh Hà Tĩnh tìm Nguyễn Xuân T. Khi Lê Tuấn V đến thì gặp Nguyễn Xuân T cùng Đào Mạnh T, Thái Bá K, Cao Văn L đang đứng trước sảnh công ty Thiện N, Lê Tuấn V ở ngoài đường cầm dao giơ lên về phía nhóm của Nguyễn Xuân T đang đứng và hỏi thằng nào đi xe mà ngu rứa. Thấy Lê Tuấn V đến gây sự thi Thái Bá K mở cốp xe ô tô lấy 01 chiếc gậy đánh bóng chày (gậy bằng gỗ hình trụ tròn dài 63cm, đường kính rộng 5cm) và một chiếc gậy lò xo (gậy bằng sắt hình trụ tròn dài 57,9cm, hai đầu gậy cầm gắn bọc nhựa), còn Đào Mạnh T mở cửa xe lấy 01 con dao ( dao dài gần 70cm, cán bằng kim loại dài 19,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50,5cm), Nguyễn Xuân T lấy 01 chiếc điếu cày ( bằng tre hình trụ tròn dài gần 55,8cm, đường kính 4cm), cùng với Cao Văn L đứng trước sảnh công ty Thiện Nhân lời qua tiếng lại với Lê Tuấn V. Nghe tiếng ồn ào, Nguyễn Văn H(Quản lý công ty Thiện N ) ra can ngăn, nhưng hai bên vẫn tiếp tục lời qua tiếng lại. Cùng lúc này Đồng Phúc T ( bạn của Lê Tuấn V ), thấy đông người tập trung trước sảnh Công ty Thiện N nên đi vào xem thì bị Đào Mạnh T, Thái Bá K, Nguyễn Xuân T cầm hung khí đuổi đánh. Đào Mạnh T, Thái Bá K, Nguyễn Xuân T đuổi đánh Hồng Phúc T nhưng không đuổi kịp nên quay trở lại công ty Thiện N, lúc này có thêm Đặng Hồng T, Trần Ngọc S, Nguyễn Văn S và Ma Văn L từ trong công ty ra tham gia cùng với nhóm của Nguyễn Xuân T. Khi nhóm của Nguyễn Xuân T và Lê Tuấn V đang lời qua tiếng lại với nhau, thì Lê Hồng S(em trai của Lê Tuấn V) đi đến. Thấy Lê Hồng S đến thì Nguyễn Văn H đi lại nói chuyện để hòa giải, thì lúc này Đào Mạnh T đi vào công ty cất dao mình cầm tại góc trái cửa ra vào rồi đi ra sảnh đứng. Trong lúc, Nguyễn Văn H đang nói chuyện với Lê Hồng S thì Trần Ngọc S đi vào lấy con dao mà Đào Mạnh T cất trước đó, rồi đi lại gần Lê Tuấn V chém một nhát vào người, nhưng Lê Tuấn V tránh được. Lê Tuấn V lùi về phía sau rồi ném một con dao về phía Trần Ngọc S. Thấy Lê Tuấn V bị chém, Lê Hồng S nhặt một tảng đá bằng bê tông ( kích thước 20x20cm ) bên đường ném về phía Đào Mạnh T và Trần Ngọc S nhưng trúng vào cửa kính xe ô tô 37A-593.xx của Tạ Văn H, làm xe bị vỡ kính xe. Nguyễn Văn Sinh nhặt lại tảng đá mà Lê Hồng Sơn vừa ném ném trả lại Lê Hồng S; Thái Bá K cầm gậy lò xo đuổi đánh Lê Hồng S nhưng bị rơi gậy, nên cùng với cả nhóm chạy vào trong công ty Thiện N. Lê Hồng S nhặt gậy lò xo của K vừa đánh rơi, còn Vũ nhặt đá ở bên đường tiếp tục ném vào sảnh công ty Thiện N. Cao Văn L cầm một khung sắt (kích thước 42x33cm), Nguyễn Văn S, Ma Văn L, Đặng Hồng T mỗi người cầm một cốc thủy tinh ( đường kính 5cm cao 5cm ) đứng ở phía sảnh công ty ném về phía V và S. Thấy V và S tiếp tục nhặt đá ném về phía mình, nên Thái Bá K cầm một chiếc cuốc (cán tre dài 1,62m, lưỡi cuốc hình bán nguyệt kích thước 18x25cm); Đào Mạnh T cầm xẻng (cán bằng tre dài 0.86m, lưỡi xẻng làm bằng kim loại dài 0,34m); Trần Ngọc S cầm dao; Nguyễn Xuân Th cầm chổi lau nhà ( cán chổi làm bằng kim loại hình trụ tròn dài 0,17m đường kính 0,17m) Ma Văn L cầm gậy bóng chày; Cao Văn L cầm khung sắt; Nguyễn Văn S cầm cốc thủy tinh ( đường kính 5cm cao 5cm ); Đặng Hồng T cầm gạt tàn thủy tinh ( kích thước 17x17cm) cùng chạy ra truy đuổi Lê Tuấn V và Lê Hồng S. Bị truy đuổi nên V và S chạy từ ngõ 15 lùi ra mép đường Quốc lộ 12C thì bị Trần Ngọc Sang đuổi kịp và dùng dao chém một nhát trúng vào má trái làm Lê Tuấn Vũ bị thương và ngã xuống đường. Khi thấy Lê Tuấn V bị ngã thì Trần Ngọc S, Đào Mạnh T, Thái Bá K, Nguyễn Xuân T, Nguyễn Văn S, Cao Văn L, Ma Văn L và Đặng Hồng T tiếp tục cầm hung khi truy đuổi Lê Hồng S theo đường Quốc lộ 12C, sang đến khu nhà liền kề, thuộc tổ dân phố 1, phường H. Quá trình truy đuổi thì Lê Hồng S tiếp tục nhặt đá và ném trả lại nhóm Nguyễn Xuân T. Khi Lê Hồng S chạy sang khu nhà liền kề thì cả nhóm không đuổi nữa và quay về Công ty Thiện N. Thấy sự việc ồn ào, náo loạn nên người dân báo cho Công an thị xã K đến giải quyết, còn Lê Tuấn V được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa thị xã K.
Hành vi dùng dao, khung sắt, xẻng, cuốc, chổi lau nhà cán bằng kim loại, điếu cày, cốc thủy tinh, gạt tàn thủy tinh, gậy bóng chày, gậy lò xo, gạch đá (là hung khi nguy hiểm) gây gỗ, đuổi đánh nhau của Trần Ngọc S, Đào Mạnh T, Thái Bá K, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Cao Văn L, Nguyễn Văn S, Lê Tuấn V, Lê Hồng S và Đặng Hồng T xảy ra trước công ty bất động sản Thiện N, kéo dài ra đường Quốc lộ 12C, sang khu nhà liền kề bên đường 12C, thuộc tổ dân phố 1, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh diễn ra trong hơn 20 phút, gây ồn ào, náo loạn khu vực có nhiều nhà dân, tuyến đường giao thông huyết mạch nhiều người phương tiện qua lại, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, sinh hoạt bình thường của người dân. Đồng thời trong qua trình đuổi đánh nhau, Trần Ngọc S dùng dao (hung khí nguy hiểm) gây thương tích cho Lê Tuấn V phải đi bệnh viện cấp cứu và điều trị; Lê Tuấn V và Lê Hồng S ném đá làm xe ô tô của anh Tạ Văn H bi hư hỏng.
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ A phát hiện và thu giữ 01 khẩu súng hơi ở trong vườn Công ty Thiện N nhưng chưa xác định được chủ sở hữu và có căn cứ xác định không liên quan đến vụ án.
Kết luận giám định số 123/TgT ngày 08/10/2021 của Trung tâm pháp y và giám định y khoa Hà Tĩnh kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Lê Tuấn V là 7%.
Kết luận giám định số 14/PC09-SĐ, ngày 30/11/2021 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Khẩu súng gửi tới giám định là súng hơi, thuộc súng săn, không phải vũ khí quân dụng.
Kết luận định giá của hội đồng định giá trong tố tụng của Ủy ban nhân dân thị xã K xác định xe ô tô BKS 37A – 593.xx thiệt hại 1.400.000 đồng Hành vi của Trần Ngọc S dùng dao (là hung khí nguy hiểm) gây thương tích cho Lê Tuấn V với tỷ lệ thương tích dưới 11%. Trong quá trình điều tra, Lê Tuấn V có đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra Công an thị xã K đã thu giữ các vật chứng bao gồm: 01 (một) con dao dài 26cm, cán dao làm bằng gỗ màu mun dài 11cm, lưỡi dao làm bằng kim loại sáng trắng dài 15cm, rộng 3.5cm, trên lưỡi dao phần mũi dao có một vết màu đỏ sẫm, hình tròn, đường kính 2cm, đã qua sử dụng; 01 (một) con dao dài 28cm, cán dao làm bằng nhựa màu đen dài 12cm, lưỡi dao làm bằng kim loại sáng trắng, mũi dao nhọn bị cong vênh dài 16cm, rộng 5cm, đã qua sử dụng; 01 (một) lưỡi dao dài 39cm, làm bằng kim loại sáng trắng, nợi rộng nhất 2.6cm, mũi dao vuốt nhọn, phía cuối lưỡi dao có gắn một khối kim loại có hình con ngựa, đã qua sử dụng; 01 (một) con dao dài 70cm, cán dao làm bằng kim loại được cuộn bằng dây dù màu nâu đỏ, lưỡi dao làm bằng kim loại sáng trắng dài 50.5cm, mũi dao vuốt nhọn, nơi rộng nhất 6cm, trên sống dao có 15 rãnh cắt có kích thước khác nhau, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc gậy hình trụ tròn màu đen dài 63cm, đường kính nơi rộng nhất 5cm, nơi nhỏ nhất 3cm, bên trên gậy có dòng chữ màu đen “BAT”; 01 (một) chiếc xuổng làm bằng kim loại đã bị hoen rỉ, dài 1.14m, cán xuổng hình trụ tròn đường kính 3cm, lưỡi xuổng có kích thước (25.5x8)cm, đập bẹp, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc xẻng dài 1.2m, cán xẻng làm bằng gỗ tre hình trụ tròn dài 0.86m, xẻng làm bằng kim loại đã bị hoen rỉ; 01 (một) khối kim loại sáng trắng, hình hộp chữ nhật có kích thước (30.5x8x4)cm, đã qua sử dụng; 01 (một) vật được làm bằng kim loại sáng trắng dạng hình thang, kích thước (34x42)cm, có 03 bậc thang hàn gắn với nhau, đã qua sử dụng; Nhiều mãnh vỡ thủy tinh và gạch lát nền; 01 (một) ống điếu hút thuốc lào, màu sáng trắng, hình trụ tròn dài 55.8cm, đường kính 4cm, có giá đỡ làm bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) dụng cụ thể hình, hình trụ tròn, dài 57.9cm; hai đầu tay cầm bọc nhựa màu xanh, một đầu có gắn dây dù màu đen; ở giữa dạng hình lò xo làm bằng kim loại sáng trắng dài 20.1cm, đã qua sử dụng; 01 (một) khối kim loại có kích thước (42x33)cm, dạng hình thang có 03 bậc thang; khối kim loại được gắn với một thanh kim loại hình hộp chữ nhật kích thước (32x9x5)cm, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc chổi lau nhà dài 1.23m, cán làm bằng kim loại hình trụ tròn, mày sáng trắng, tay cầm bọc nhựa màu tím, phần chổi lau hình tròn đường kính 0.17m có gắn nhiều sợi vải màu tím, đã qua sử dụng; 01 (một) con dao dài 86cm, cán dao làm bằng gỗ màu vàng, kẻ sọc cờ rô dài 23cm, hình trụ tròn đường kính 3.3cm, hai đầu cán gắn 02 vòng kim loại màu vàng; Lưỡi dao làm bằng kim loại sáng trắng dài 63cm, mũi vuốt nhọn, nơi rộng nhất 4.2cm, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc cuốc vét cán làm bằng gỗ tre dài 1.62m, lưỡi cuốc vét có hình bán nguyệt kích thước nơi cao nhất 0.18m, kích thước nơi rộng nhất 0.25m, đã qua sử dụng; 01 (một) biển kiểm soát 38P1-19xx, đã qua sử dụng; 01(một) xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH150, BKS 38K1- 097.xx; 01(một) xe mô tô hiệu Honda, loại xe Dream, BKS 38F1- 26xx. Xe mô tô BKS 38K1- 097.xx và xe mô tô BKS 38F1- 26xx đã trả cho chủ sở hữu còn các vật chứng khác đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kỳ Anh chờ xử lý.
Thu tại hiện trường 01(một) khẩu súng, màu đen, chiều dài 78cm, súng có đầy đủ các bộ phận như báng súng hình trụ tròn đường kính 8cm, có gắn một đồng hồ đo áp suất, có tay cò, bộ khóa nòng màu vàng, nòng súng hình trụ tròn đường kính 3cm, bị cong, bên trên nòng súng có dòng chữ màu trắng “AIRFORCE”, không xác định được chủ sở hữu và không liên quan đến vụ án nên chuyển cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh xác minh, điều tra xử lý.
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình đuổi đánh nhau, Lê Tuấn V bị Trần Ngọc S chém gây thương tích 7%, nên đã yêu cầu bồi thường tiền viện phí, tiền thuốc điều trị, tiền chữa trị vết thương, tiền tổn thất về lao động trong quá trình điều trị với tổng số tiền 300.000.000 đồng, trước khi đưa vụ án ra xét xử hai bên thỏa thuận chỉ bồi thường tổng số tiền 70.000.000 đồng, hiện Trần Ngọc Sang, Đào Mạnh T, Thái Bá K, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Cao Văn L, Nguyễn Văn S, Đặng Hồng T mỗi bị cáo đã bồi thường cho Lê Tuấn V số tiền 8.750.000 đồng (tổng cộng: 70.000.000 đồng); còn người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Tạ Văn H không yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản.
Tại bản án sơ thẩm số 50/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh, xử:
Căn cứ điểm b, e khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với Trần Ngọc S;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với Lê Tuấn V;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Thái Bá K;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Xuân Thịnh, Đào Mạnh Trình, Ma Văn L;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Văn S;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Lê Hồng S;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Cao Văn L;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự đối với Đặng Hồng T;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn V, Trần Ngọc S, Thái Bá K, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S, Lê Hồng S, Cao Văn L và Đặng Hồng T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
2. Về hình phạt:
- Xử phạt Trần Ngọc S30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam là ngày 06/10/2021.
- Xử phạt Thái Bá K 28 (hai tám) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” tổng hợp hình phạt tại bản án số 97/2018/HSST ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội “Gây rối trật tự công cộng” buộc bị cáo Thái Bá K phải chịu mức hình phạt chung là 52 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 24/11/2021.
- Xử phạt Lê Tuấn V 26 (hai sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Xử phạt Nguyễn Xuân T 24 (hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/10//2021 đến ngày 08/10/2021.
- Xử phạt Ma Văn L 24 (hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/10/2021 đến ngày 08/10/2021.
- Xử phạt Đào Mạnh T 24 (hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10//2021 đến ngày 30/11/2021.
- Xử phạt Nguyễn Văn S 24 (hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/10//2021 đến ngày 08/10/2021.
- Xử phạt Lê Hồng S 24 (hai tư) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 20/9/2022 - Xử phạt Cao Văn L 24 (hai tư) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 20/9/2022 - Xử phạt Đặng Hồng T 24 (hai tư) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 20/9/2022 Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí dân sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 23/9/2022, bị cáo Nguyễn Xuân T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Ngày 23/9/2022, bị cáo Nguyễn Văn S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Ngày 23/9/2022, bị cáo Đào Mạnh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Ngày 27/9/2022, bị cáo Ma Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Ngày 27/9/2022, bị cáo Lê Tuấn V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Tuấn Vũ, giảm hình phạt cho bị cáo, xử phạt Lê Tuấn V 21 tháng tù. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cải biện pháp chấp hành án cho các bị cáo: Xử phạt bị cáo Đào Mạnh T 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 48 tháng; Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 48 tháng; Xử phạt bị cáo Ma Văn L 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 48 tháng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 48 tháng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung:
Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Lê Tuấn V, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Vì vậy, đủ căn cứ khẳng định: Do mâu thuẫn cá nhân nên vào khoảng 22 giờ 25 phút ngày 02/10/2021, Lê Tuấn V cầm theo hai con dao đến Công ty Thiện Nhân, ở tổ dân phố 3, phường H, thị xã K để đe dọa, gây gổ đánh nhau. Trong quá trình gây gổ đuổi đánh nhau, Lê Hồng S, Trần Ngọc S, Thái Bá K, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S, Cao Văn L và Đặng Hồng T đã dùng dao, khung sắt, xẻng, cuốc, chổi lau nhà cán bằng kim loại, cốc thủy tinh, gậy bóng chày, gậy lò xo, gạch đá (hung khí nguy hiểm) đuổi đánh nhau từ sân Công ty Thiện N, kéo dài ra đường Quốc lộ 12C, sang khu nhà liền kề bên đường 12C, thuộc tổ dân phố 1, phường Hưng Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Sự việc diễn ra trong khoảng thời gian hơn 20 phút, gây ồn ào náo loạn trong khu vực có nhiều nhà dân, tuyến đường giao thông huyết mạch có nhiều người và phương tiện qua lại, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, sinh hoạt bình thường của người dân. Quá trình đánh nhau, Trần Ngọc S dùng dao (hung khí nguy hiểm) chém gây thương tích cho Lê Tuấn V phải đi bệnh viện khâu vết thương, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 7% nhưng Lê Tuấn V không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và Lê Hồng Sơn dùng đá ném làm vỡ kính xe ô tô của anh Tạ Văn H gây thiệt hại 1.400.0000 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2022/HS- ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh xét xử các bị cáo về tội “Gây rối trật trật tự công cộng” là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự địa bàn.
Đối với bị cáo Lê Tuấn V: Trong vụ án này bị cáo Vũ là người khởi xướng, thực hành tích cực và là nguyên nhân dẫn đến xảy ra vụ án, vì vậy cần xét xử bị cáo mức hình phạt đủ nghiêm và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, xét bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có ông nội tham gia kháng chiến chống Mỹ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương, ông ngoại được Kỷ niệm chương quân tình nguyện Việt Lào theo quy đinh tại tiết thứ nhất và tiết thứ hai điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình đơn trình bày có xác nhận của chính quyền địa phương về việc bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, 03 con còn nhỏ, vợ không có việc làm ổn định, bị cáo là lao động chính trong gia đình, vì vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì việc cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 26 tháng tù là có phần nặng, vì vậy cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt, tạo điều kiện để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội, sửa chữa những lỗi lầm của bản thân.
Đối với bị cáo Đào Mạnh T: Xét thấy quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, có ông cố nội Đào M là Liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại tiết thứ nhất và tiết thứ hai điểm s, điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình chứng cứ thể hiện bị cáo có ông nội Đào Mạnh T, có thành tích trong cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất; văn bản trình bày hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo Đào Mạnh T là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú, nhằm thể hiện sự khoan hồng và tính nhân đạo của pháp luật đối với bị cáo.
Đối với bị cáo Nguyễn Xuân T: Xét thấy quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, có ông bà nội là Nguyễn Trí T, Phan Thị N được UBND tỉnh Nghệ An tặng Bằng khen vì có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà nội được hưởng chính sách như thương binh nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình chứng cứ thể hiện bị cáo có bà nội Phan Thị Nguyệt, có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; Đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, vợ sắp sinh con có xác nhận của chính quyền địa phương, đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng thêm cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy, mặc dù bị cáo Nguyễn Xuân T từng bị kết án vào năm 2011, nhưng đã được xóa án tích, hiện nay có nơi cư trú ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, 02 con còn nhỏ, vợ sắp sinh con, là lạo động chính trong gia đình, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì vậy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú, có điều kiện giúp đỡ gia đình.
Đối với bị cáo Ma Văn L: Xét thấy quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, có bố là bệnh binh, ông bà nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình văn bản trình bày hoàn cảnh khó khăn, vợ sắp sinh con có xác nhận của chính quyền địa phương, đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng thêm cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét về nhân thân mặc dù năm 2016 bị cáo Ma Văn L từng bị khởi tố về tội “ mua bán hàng cấm” nhưng sau đó đã được Viện kiểm sát đình chỉ Điều tra do sự thay đổi chính sách pháp luật, hiện nay bị cáo có nơi cư trú ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, vợ sắp sinh con, là lao động chính trong gia đình, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì vậy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú, để giúp đỡ gia đình giảm bớt khó khăn.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn S: Xét thấy quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, có ông nội Nguyễn Trọng  được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, bà nội Chu Thị N được UBND tỉnh Nghệ An tặng Bằng khen do đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo S là người có nhân thân tốt, hiện nay có nơi cư trú ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cải biện pháp chấp hành án cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú.
[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Lê Tuấn V, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T Ma Văn L, Nguyễn Văn S. Sửa Bản án sơ thẩm số 50/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh: Giảm hình phạt cho bị cáo Lê Tuấn V; cải biện pháp chấp hành hình phạt đối với các bị cáo Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S.
Tuyên bố các bị cáo Lê Tuấn V, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Tuấn V 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318, điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự:
+ Xử phạt bị cáo Đào Mạnh T 24 (hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Đào Mạnh T cho Uỷ ban nhân dân xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 24 (hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Xuân T cho Uỷ ban nhân dân xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
+ Xử phạt bị cáo Ma Văn L 24 (hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Ma Văn L cho Uỷ ban nhân dân xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 24 (hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn S cho Uỷ ban nhân dân xã D huyện D, tỉnh Nghệ An quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Nếu người được hưởng án treo thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 21, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Các bị cáo Lê Tuấn V, Đào Mạnh T, Nguyễn Xuân T, Ma Văn L, Nguyễn Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 13/2023/HS-PT
Số hiệu: | 13/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về