Bản án về tội gá bạc và đánh bạc số 196/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 196/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 198/2022/HSST, ngày 05 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2022/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2022/HSST- QĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hữu C, sinh năm 1962.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố T, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu Kh (Đã chết) và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1921; Có vợ là Lê Thị H; Có 03 con, lớn sinh năm 1981, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

2. Hoàng Ngọc M, sinh năm 1982.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Số 02/71 M, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Ngọc A, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1950; Có vợ là Nguyễn Thị Tr; Có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 16/11/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

3. Nguyễn Hữu Ng, sinh năm 1988 Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố Th, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu V, sinh năm 1947 và bà Lê Thị D, sinh năm 1956; Có vợ là Lê Ngọc Á; Có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

4. Nguyễn Văn T, sinh năm 1982.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố Th, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1941 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1942; Có vợ là Nguyễn Thị H; Có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

5. Lê Văn L, sinh năm 1972.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố Th, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn L (Đã chết) và bà Hoàng Thị D (Đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị H; Có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995;

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

6. Nguyễn Công N, sinh năm 1985.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố P, phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công Nh (Đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1958; Có vợ là Phạm Thị Ph; Có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2022 đến ngày 13/02/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ ngày 07/02/2022, Tổ công tác Phòng CSĐT hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an phường Q, thành phố H tiến hành kiểm tra hành chính nhà ở của Nguyễn Hữu Ch tại phố Th, phường Q, thành phố H. Qua kiểm tra, phát hiện tại phòng để đồ của gia đình Ch có các đối tượng gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ngh và Hoàng Ngọc M đang đánh bạc dưới hình thức đánh bài 03 cây ăn tiền. Thu tại chiếu bạc số tiền 23.800.000đ. Tại phòng bếp của gia đình Ch có các đối tượng gồm: Nguyễn Văn Th, Lê Thị H, Nguyễn Hữu T và nguyễn Văn Th đang đánh bạc dưới hình thức đánh bài 03 cây ăn tiền. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 10.900.000đ.

Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận:

Chiều ngày 07/02/2022 (là ngày mùng 7 Tết Nguyên đán), sau khi đi ăn lễ hạ nếu theo phong tục địa phương thì Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng và Hoàng Ngọc M đến nhà Nguyễn Hữu Ch là hàng xóm chơi Tết.

Trong lúc ngồi chơi uống nước, cả nhóm rủ nhau đánh bài ăn tiền và được Ch đồng ý. Cả nhóm đi xuống phòng để đồ của gia đình Ch, thấy có sẵn một chiếc chiếu và 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây đã cũ. Cả nhóm thống nhất đánh bạc dưới hình thức 03 cây cầm chương ăn tiền. Hình thức đánh bạc “Ba cây cầm chương” là lọc bộ bài lấy các quân bài từ A đến 9 để chơi với hình thức: Chia cho mỗi người một cây, ai cao nhất người đó sẽ cầm chương. Sau đó chia cho mỗi người 03 cây bài, người chơi sẽ đặt tiền với số tiền thấp nhất được quy định là 50.000đ. Người chơi có thể đặt tiền cao hơn nhưng phải được người cầm chương chấp nhận. Đặt tiền xong, người chơi sẽ cộng tổng số điểm trên 3 cây bài để so với người cầm chương. Nếu người chơi thấp điểm hơn người cầm chương thì người chơi thua và sẽ mất số tiền đặt cửa. Nếu người chơi cao điểm hơn thì người chơi thắng và sẽ được người cầm chương trả tiền bằng số tiền người chơi đã đặt cửa. Nếu bằng điểm nhau sẽ tính theo chất bài lớn dần là bích, tép, rô, cơ. Nếu 3 cây giống nhau gọi là sáp và thắng sẽ được nhân gấp 3 số tiền đặt cửa. Nếu 3 cây cùng chất liền nhau gọi là đồng hoa và thắng sẽ được nhân gấp 4 lần tiền đã đặt cửa. Cả nhóm chơi được khoảng gần 01 tiếng thì bị Tổ Công tác phát hiện, bắt quả tang.

Đối với chiếu bạc tại phòng bếp của gia đình Ch gồm: Nguyễn Hữu T (Con trai Ch), Nguyễn Văn Th, Lê Thị H và Nguyễn Văn Th là các cháu, hàng xóm của Ch. Cả nhóm tham gia đánh bạc từ khoảng 16 giờ cùng ngày với cách thức đánh 03 cây như trên nhưng mỗi ván đặt cửa 10.000đ. Tổng số tiền thu giữ khi bắt quả tang là 10.900.000đ nhưng trong đó có 8.000.000đ của Nguyễn Văn D (Con trai Ch) và 705.000đ của Nguyễn Văn M là những người đứng xem đánh bạc, khi Công an ập vào bắt quả tang, do lo sợ có liên quan đến việc đánh bạc nên D và M đã ném số tiền này vào chiếu bạc. Do đó, số tiền đánh bạc ở chiếu bạc dưới bếp nhà Ch được xác định là 2.195.000đ.

Quá trình điều tra xác định Nguyễn Hữu Ch là chủ nhà, tuy không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng đã đồng ý cho 02 chiếu bạc cùng một lúc sử dụng nơi ở của mình đánh bạc với tổng số tiền là 25.995.000đ. Ch được hưởng lợi 20.000đ đối với những ván người cầm chương được 10 điểm hoặc 20 điểm tại chiếu bạc trong phòng để đồ. Theo khai nhận, các đối tượng đã trích ra được khoảng 100.000đ nhưng Ch chưa cầm, số tiền này vẫn để trên chiếu bạc, khi bị bắt quả tang số tiền này bị thu giữ trong tổng số tiền 23.800.000đ.

Số tiền các đối tượng khai nhận sử dụng vào mục đích đánh bạc không nhớ cụ thể, Nguyễn Hữu Ng khai sử dụng số tiền khoảng 4.000.000đ để đánh bạc; Nguyễn Công N khai sử dụng số tiền khoảng 3.000.000đ để đánh bạc; Nguyễn Hữu T khai sử dụng số tiền khoảng 3.000.000đ để đánh bạc; Lê Văn L khai sử dụng số tiền khoảng 3.000.000đ để đánh bạc; Hoàng Ngọc M khai sử dụng số tiền khoảng 1.000.000đ để đánh bạc. Số tiền các bị cáo khai không trùng với số tiền thu được, tuy nhiên các đối tượng đều thừa nhận số tiền thu được tại chiếu bạc là số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc. Do đó buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về số tiền đánh bạc là 23.800.000đ.

Đối với hành vi đánh bạc ăn tiền của Nguyễn Văn Th, Lê Thị H, Nguyễn Hữu T và Nguyễn Văn Th do số tiền đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, các đối tượng chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại cáo trạng số 147/CT-VKS, ngày 29/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa truy tố Nguyễn Hữu Ch về tội “Gá bạc” theo điểm b,c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015; Truy tố Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ngh và Hoàng Ngọc M về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Ch phạm tội “Gá bạc”.

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ngh và Hoàng Ngọc M phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào điểm b,c khoản 1 Điều 322; Điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Hữu Ch.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Hoàng Ngọc M.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Văn T.

Xử phạt:

- Nguyễn Hữu Ch từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Các bị cáo Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng và Hoàng Ngọc M từ 12 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nguyễn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Về Hình phạt bổ sung: Do các bị cáo có đơn đề nghị miễn hình phạt bổ sung vì hoàn cảnh khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương nên đề nghị không áp dụng hình phạt tiền.

Và đề nghị xử lý vật chứng.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận: Vào hồi 17 giờ ngày 07/02/2022, Tổ công tác Phòng CSĐT hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an phường Q, thành phố H tiến hành kiểm tra hành chính nhà ở của Nguyễn Hữu Ch tại phố Th, phường Q, thành phố H đã phát hiện 01 chiếu bạc tại phòng để đồ gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng và Hoàng Ngọc M đang đánh bạc ăn tiền dưới hình thức 03 cây cầm chương. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 23.800.000đ và 01 chiếu bạc tại phòng bếp gồm Nguyễn Văn Th, Lê Thị Hi, Nguyễn Hữu T và Nguyễn Văn Th, số tiền đánh bạc là 2.195.000đ.

Đối với Nguyễn Hữu Ch là chủ nhà, đã đồng ý cho 02 chiếu bạc cùng một lúc sử dụng nơi ở của mình đánh bạc với tổng số tiền 25.995.000đ.

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Hữu Ch phạm tội “Gá bạc” theo quy định tại điểm b,c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015; Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng và Hoàng Ngọc M “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đánh bạc trái phép với hình thức đánh 03 cây có tính chất được thua bằng tiền là hành vi bị pháp luật cấm. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tới trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an và nếp sống văn minh xã hội, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác do đó cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Đối với bị cáo Nguyễn Hữu Ch là chủ nhà, không tham gia đánh bạc, không có sự chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội nhưng đã để những người thân và bạn bè, hàng xóm sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình cho 02 chiếu bạc cùng một lúc với tổng số tiền đánh bạc trị giá trên 20.000.000đ. Hành vi tuy đơn giản nhưng vẫn mang bản chất của việc gá bạc. Do đó hành vi của bị cáo Ch đã phạm vào tội “Gá bạc” quy định tại điểm b,c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với các đối tượng là Nguyễn Văn Th, Lê Thị H, Nguyễn Hữu T và Nguyễn Văn Th có hành vi đánh bạc ăn tiền tại chiếu bạc thứ hai, tuy nhiên do số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000đ nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ngày 13/4/2022, Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, xử phạt mỗi đối tượng số tiền 1.500.000đ là đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, khi có người khởi xướng việc đánh bạc thì các bị cáo đều đồng ý, thống nhất hình thức chơi, quy định mức tiền và tích cực thực hiện do đó các bị cáo phạm tội đánh bạc có vai trò ngang nhau trong vụ án, cần xem xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt tương xứng.

Đối với bị cáo Nguyễn Hữu Ch phạm tội với vai trò độc lập.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng chung tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L và Nguyễn Hữu Ng phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng chung tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo T có bố là thương binh và được tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Bị cáo Ngh, L và M có bố được tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các bị cáo đều tích cực tham gia ủng hộ phòng chống dịch covid có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền; Bị cáo M được Ủy ban MTTQ Việt Nam phường Đ, thành phố H có Thư cảm ơn vì có tinh thần làm việc tốt, hành động thân thiện. Do đó các bị cáo được hưởng chung tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Hữu Ch trong thời gian làm tổ trưởng tổ an ninh xã hội tại địa phương đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Ch còn được Chủ tịch UBND phường Q, thành phố Thanh Hóa tặng Giấy khen là công dân gương mẫu.

Các bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên xin được cải tạo tại địa phương để có điều kiện chăm lo cho gia đình; Chính quyền địa phương đã xác nhận và đề nghị Tòa án cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với từng bị cáo - Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và luôn chấp hành tốt các chính sách tại địa phương; Đối với bị cáo Hoàng Ngọc M mặc dù năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng bị cáo đã được xóa án tích, thời gian đã lâu, mức độ của tội phạm tội mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền tham gia đánh bạc ít (Một triệu đồng), đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền nơi cư trú cũng đủ sức giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn T là gia đình chính sách, bản thân bị cáo đang phải chăm sóc bố đẻ là thương binh ốm nặng nên áp dụng hình phạt Cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp. Đối với bị cáo bị xử phạt cải tạo không giam giữ phải bị khấu trừ một phần thu nhập để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng do bị cáo T có hoàn cảnh khó khăn, không có thu nhập ổn định (Có xác nhận của chính quyền địa phương) nên không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo chỉ là vui chơi giải trí ngày Tết, không phải chuyên nghiệp, các bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, xin miễn hình phạt tiền nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[7] Về xử lý vật chứng: Số tiền 25.995.000đ thu tại 02 chiếu bạc là tiền các đối tượng dùng để đánh bạc do đó cần tịch thu để sung công quỹ Nhà nước. Đối với 02 bộ bài tú lơ khơ và 01 chiếu cói là công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Hữu Ch phạm tội “Gá bạc”.

Các bị cáo Hoàng Ngọc M, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng và Nguyễn Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào điểm b,c khoản 1 Điều 322; Điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Hữu Ch.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ng.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Hoàng Ngọc M.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Văn T.

Xử phạt:

- Nguyễn Hữu Ch 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Hoàng Ngọc M 13 (Mười ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 (Hai mươi sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nguyễn Công N 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nguyễn Hữu Ng 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Lê Văn L 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng Cải tạo không giam giữ, được trừ 05 ngày tạm giữ = 15 ngày cải tạo không giam giữ (Từ ngày 08/2/2022 đến ngày 13/02/2022). Còn lại 17 (Mười bảy) tháng 15 (Mười lăm) ngày.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo T.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hoá giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường nơi bị cáo cư trú nhận được hồ sơ thi hành án của Cơ quan thi hành án hình sự và tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Giao các bị cáo Nguyễn Hữu Ch, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ngcho UBND phường Q, thành phố H, tỉnh Thanh Hoá giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Hoàng Ngọc M cho UBND phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hoá giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68; Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy Hai (02) bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng (Từ A đến 9) và Một chiếu cói cũ. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 25.995.000đ (Hai mươi lăm triệu, chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng) là tiền các bị cáo dùng để đánh bạc.

Các vật chứng và tài sản hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo Biên bản giao nhận vật chứng số 114/THA/2022 ngày 06/5/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá và Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Khoản 1 Điều 21; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Buộc các bị cáo: Nguyễn Hữu Ch, Nguyễn Văn T, Nguyễn Công N, Lê Văn L, Nguyễn Hữu Ngh và Hoàng Ngọc M mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

399
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gá bạc và đánh bạc số 196/2022/HS-ST

Số hiệu:196/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về