TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 162/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC
Ngày 28 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 106/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Võ Đình B, sinh năm 1978 tại Quảng Nam; thường trú: Tổ, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đình M (đã chết) và bà Trần T sinh năm 1935; vợ tên Huỳnh Thị Thanh T, sinh năm 1983 và 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022 đến ngày 21/01/2022 và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại; có mặt.
2. Phạm Văn H, sinh năm 1964 tại Bình Dương; thường trú: Khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn V (đã chết) và bà Hồ Thị L, sinh năm 1918; vợ tên Huỳnh Thị M, sinh năm 1964 (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022 đến ngày 21/01/2022 và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại; có mặt.
3. Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1993 tại Bình Dương; thường trú: Tổ, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022 đến ngày 21/01/2022 và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại; có mặt.
4. Lê Duy H2, sinh năm 1988 tại Nam Định; thường trú: Thôn H, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; tạm trú: tổ, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Doanh B, sinh năm 1956 và bà Lê Thị P, sinh năm 1960; vợ tên Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1987 và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022 đến ngày 21/01/2022 và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Đình B, Lê Duy H2, Phạm Văn H, Nguyễn Thanh H1 có quan hệ là bạn với nhau.
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 12/01/2022, Lê Duy H2, Võ Đình B, Nguyễn Thanh H1 lần lượt đi đến quán cà phê không tên của Phạm Văn H tại khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương để uống cà phê. Tại đây H, B, H2, H1 cùng ngồi uống cà phê, nói chuyện. Trong lúc ngồi nói chuyện, B rủ H2, H, H1 qua nhà của B (đối diện với quán cà phê của H) chơi đánh bài phỏm thắng thua bằng tiền thì tất cả đều đồng ý. Sau đó, B, H, H2 và H1 đi qua nhà của B và lên trên gác chơi đánh bạc. B lấy một bộ bài có sẵn trong nhà ra chơi đánh phỏm cùng với H, H2 và H1, mỗi ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 300.000 đồng, so bài với nhau để tính thắng thua, ai thắng thì được chia bài. Đến khoảng 13 giờ 50 phút cùng ngày, khi B, H2, H1, H đang chơi đánh phỏm thắng thua bằng tiền thì bị Công an phường T tuần tra, phát hiện và bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc 7.700.000 đồng và đưa B, H, H2, H1 về trụ sở làm việc. Qua làm việc B, H2, H1, H đều khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi bài phỏm thắng thua bằng tiền.
Công an phường T tạm giữ: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng; số tiền 1.500.000 đồng trên người Lê Duy H2; số tiền 11.000.000 đồng trên người Nguyễn Thanh H1 và lập hồ sơ ban đầu, chuyển giao hồ sơ cùng đồ vật, tài liệu liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên để thụ lý theo thẩm quyền. Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:
Võ Đình B khai: Vào ngày 12/01/2022, B sử dụng gác của nhà mình để cùng đánh bạc với H, H1, H2 dưới hình thức chơi đánh phỏm thắng thua bằng tiền. B sử dụng 2.200.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang, B thua 1.000.000 đồng, còn 1.200.000 đồng để trên bàn. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 7.700.000 đồng.
Phạm Văn H khai mang theo 7.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H thua 500.000 đồng, còn lại 6.500.000 đồng để trong bóp tại vị trí đánh bạc. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 7.700.000 đồng.
Nguyễn Thanh H1 khai mang theo 8.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H1 thắng 3.000.000 đồng, bị thu giữ trên người 11.000.000 đồng. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 7.700.000 đồng.
Lê Duy H2 khai mang theo 3.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, H2 thua 1.500.000 đồng, bị thu giữ 1.500.000 đồng trên người. Số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 7.700.000 đồng.
Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của các bị cáo xác định số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc tại nhà của B vào ngày 12/01/2022 là 20.200.000 đồng.
Bản Cáo trạng số 127/CT-VKSTU ngày 09/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Võ Đình B về tội “Gá bạc” và “Đánh bạc”; truy tố các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Thanh H1, Lê Duy H2 về tội “Đánh bạc”.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
- Về trách nhiệm hình sự:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Đình B từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Đình B từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng về tội “Gá bạc”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 75.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn H từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H1 từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Duy H2 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 20.200.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tây đã qua sử dụng.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vê thu tuc tô tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Ngày 12/01/2022, tại khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Võ Đình B có hành vi sử dụng nhà ở của mình để đánh bạc dưới hình thức chơi bài phỏm thắng thua bằng tiền cùng Phạm Văn H, Nguyễn Thanh H1 và Lê Duy H2. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 20.200.000 đồng. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường T lập lúc 14 giờ 15 phút ngày 12/01/2022, phù hợp với các lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của bị cáo B đã phạm vào tội “Gá bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 và tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;
hành vi của bị cáo H, H1 và H2 đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi mà vẫn bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.
[4] Về vai trò: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm, trong đó bị cáo B sử dụng địa điểm là nhà ở của mình và chuẩn bị công cụ để các bị cáo khác tham gia đánh bạc. Các bị cáo còn lại có vai trò là đồng phạm tích cực.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H, H1 và H2 có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo B có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Đối với bị cáo B phạm tội “Đánh bạc” và “Gá bạc”, tuy bị cáo có hành vi sử dụng địa điểm do bị cáo quản lý để các bị cáo khác tham gia đánh bạc nhưng bị cáo không thu lợi từ việc đánh bạc; việc đánh bạc, gá bạc không phải là nguồn thu nhập chính của bị cáo. Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc không áp dụng hình phạt tù cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo B, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng pháp luật của Nhà nước đối với người phạm tội.
Đối với các bị cáo còn lại đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. Với tính chất, mức độ thực hiện tội phạm của các bị cáo, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, áp dụng hình phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục đối với các bị cáo.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 20.200.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc là tang vật của vụ án nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; đối với 01 bộ bài tây đã qua sử dụng là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Đình B phạm tội “Gá bạc” và “Đánh bạc”; các bị cáo Phạm Văn H, Nguyễn Thanh H1 và Lê Duy H2 phạm tội “Đánh bạc”.
1. Về trách nhiệm hình sự:
1.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Đình B 50.000.000 đồng về tội “Gá bạc”.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Đình B 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.
Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Võ Đình B phải chấp hành hình phạt chung là 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng).
1.2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn H 30.000.000 (Ba mươi triệu đồng).
1.3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H1 30.000.000 (Ba mươi triệu đồng).
1.4. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Duy H2 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu đồng).
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 20.200.000 đồng.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tây đã qua sử dụng.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc mỗi bị cáo Võ Đình B, Phạm Văn H, Nguyễn Thanh H1 và Lê Duy H2 phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội gá bạc và đánh bạc số 162/2022/HS-ST
Số hiệu: | 162/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về