TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 92/2020/HS-PT NGÀY 16/03/2020 VỀ TỘI GÁ BẠC
Ngày 16 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 432/2019/TLPT-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị H; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 110/2019/HS-ST ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện X.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị H, sinh năm 1984 tại Nghệ An; Giấy chứng minh nhân dân số: 27236060X do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 27/11/2009; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị Th; có chồng tên Phạm Hùng C và có 04 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 08/2020/LCĐKNCT ngày 14-02-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra, vụ án còn có 11 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Vào lúc 15 giờ 20 phút ngày 11/6/2019, Công an huyện X phối hợp Công an xã X, bắt quả tang Trần Minh Đ, Lê Thị Kim H1, Phạm Văn Ch, Lê Thị Tr, Võ Thị Thanh Th, Võ Thị Thùy Tr1 và Trương Thị H2, đang thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh bài “Xì lát”, thắng thua bằng tiền, tại nhà của Nguyễn Thị H (ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai). Ngoài ra, còn có Phạm Di Thành Hữu H3, Trần Công Ngh, Cao V (tên thường gọi là Em B) và Phạm Văn T (tên thường gọi là T1) cũng tham gia đánh bạc, nhưng đã nghỉ chơi trước khi bắt quả tang.
Quá trình điều tra, xác định: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, Lê Thị Tr đến nhà Lê Thị Kim H1 chơi. Sau đó, Tr và Kim H1 đến nhà Nguyễn Thị H, mượn phòng ngủ số 3 trong nhà làm địa điểm tổ chức đánh bạc, dưới hình thức đánh bài “Xì lát” thắng thua bằng tiền, Nguyễn Thị H đồng ý. Sau khi thống nhất, Phạm Văn Ch, Võ Thị Thanh Th, Võ Thị Thùy Tr1, Trần Minh Đ, Trương Thị H2, Phạm Di Thành Hữu H3, Trần Công Ngh, Cao V và Phạm Văn T, đến tham gia đánh bạc cùng với Kim H1 và Tr. Tất cả cùng thỏa thuận thống nhất làm cái xoay tua (xoay vòng), ai không tham gia làm cái thì qua tua; các tụ con đặt mỗi ván thấp nhất là 100.000 đồng, cao nhất là 500.000 đồng; sử dụng 02 bộ bài tây 52 lá, 01 cái chăn và 01 cái đĩa bằng nhựa do Nguyễn Thị H cung cấp, để làm công cụ đánh bạc. Nguyễn Thị H thu tiền xâu, cứ mỗi tua 06 ván người làm cái phải đưa cho H 50.000 đồng. Ngoài ra, Nguyễn Thị H phục vụ nước uống cho người chơi trong quá trình đánh bạc. Chiếu bạc bắt đầu diễn ra khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày.
Hình thức đánh bạc như sau: Nhà cái sử dụng bộ bài tây 52 lá, chia lần lượt cho mình và cho các tụ chơi, mỗi tụ 02 lá bài, các lá bài còn dư thì đặt úp trên đĩa sứ giữa chiếu bạc. Sau khi chia bài xong, các tụ xem bài của mình, tùy vào điểm số của mỗi bài mà lựa chọn bốc (lấy) thêm bài hay không (nhà cái bốc bài sau cùng). Cách tính điểm như sau: Các lá bài “2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10” thì có số điểm tượng ứng số của lá bài đó; các lá bài “J, Q, K” tương ứng 10 điểm; lá bài A (còn gọi là lá xì hay lá át) có thể tính 01 điểm, 10 điểm hoặc 11 điểm. Điểm bài là tổng điểm các lá bài cộng lại. Với hai lá bài được chia đầu tiên, nếu ai có trường hợp sau đây thì mở bài không cần bốc thêm bài: 02 lá bài A gọi là xì bàn, 01 lá bài A với 01 lá bài J, Q, K hoặc 10 gọi là xì lát; nếu không thuộc trường hợp trên, thì người chơi có thể bốc thêm bài từ những lá bài còn dư sao cho số điểm nằm trong khoảng từ 16 đến 21 điểm. Việc bốc thêm bài được thực hiện lần lượt hết người này đến người khác, nhà cái bốc sau cùng và số bài bốc thêm tối đa là 3 lá. Trước hoặc trong giai đoạn bốc bài, nhà cái có quyền kiểm tra bài nhà con đã “dằn” (không bốc thêm bài) nếu nhà cái đã đủ 16 điểm trở lên. Khi bốc thêm bài, có các trường hợp đặc biệt sau: có 05 lá bài mà tổng điểm từ 21 trở xuống gọi là “ngũ linh”, quá 21 điểm gọi là “quắc” (hoặc là ngoắc, cháy). Đối chiếu tính thắng thua như sau: Lớn nhất là xì bàn rồi đến xì lát, đến ngũ linh, đến 21 điểm, đến 20 điểm và nhỏ dần đến 16 điểm, nhỏ nhất là quắc. Hai bài cùng điểm, cùng xì bàn, cùng xì lát, cùng ngoắc thì hòa; cùng ngũ linh ai ít điểm hơn thì thắng. Nhà cái trực tiếp tính thắng thua với từng tụ con, tỷ lệ thắng thua là 1:1, tức là đặt bao nhiêu tiền thì thắng thua bấy nhiêu tiền.
Hành vi gá bạc và đánh bạc của từng bị cáo cụ thể như sau:
1. Nguyễn Thị H đã cho mượn địa điểm và cung cấp công cụ dùng để đánh bạc cho chiếu bạc hoạt động gồm: Chăn, đĩa, 02 bộ bài, phục vụ nước uống và đã thu 300.000 đồng tiền xâu.
2. Lê Thị Tr mang theo số tiền 10.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Tr làm cái 03 tua (mỗi tua 06 ván) và tham gia đặt 15 ván (mỗi ván đặt từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng). Kết quả thua 4.500.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ trên người Lê Thị Tr số tiền 5.500.000 đồng.
3. Phạm Di Thành Hữu H3 mang theo số tiền 10.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Hữu H3 làm cái 02 tua (mỗi tua 06 ván) và tham gia đặt 07 ván (mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng). Kết quả thua 9.700.000 đồng thì không chơi nữa và ngồi xem.
4. Trần Minh Đ mang theo số tiền 6.600.000 đồng để tham gia đánh bạc. Minh Đ làm cái 02 tua (tua thứ nhất 06 ván, tua thứ hai 04 ván) và tham gia đặt 12 ván (mỗi ván đặt từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng). Kết quả thua 6.000.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ số tiền 600.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Minh Đ ngồi đánh bạc.
5. Võ Thị Thùy Tr1 mang theo số tiền 900.000 đồng để tham gia đánh bạc. Thùy Tr1 tham gia đặt 12 ván (mỗi ván đặt 200.000 đồng). Kết quả hòa, rồi phụ Trần Minh Đ làm cái thì bị bắt quả tang. Thu giữ trên người Võ Thị Thùy Tr1 số tiền 400.000 đồng và thu giữ số tiền 500.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Thùy Tr1 ngồi đánh bạc.
6. Lê Thị Kim H1 mang theo số tiền 2.700.000 đồng để tham gia đánh bạc. Kim H1 tham gia đặt 15 ván (mỗi ván đặt từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng). Kết quả thua 2.100.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ số tiền 600.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Lê Thị Kim H1 ngồi đánh bạc.
7. Võ Thị Thanh Th mang theo số tiền 14.650.000 đồng và chỉ sử dụng 2.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Thanh Th tham gia đặt 13 ván (mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng). Kết quả thắng 600.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ trên người Võ Thị Thanh Th số tiền 12.650.000 đồng và thu giữ số tiền 2.600.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Thanh Th ngồi.
8. Trương Thị H2 mang theo số tiền 1.700.000 đồng để tham gia đánh bạc. Trương Thị H2 tham gia đặt 10 ván (mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng). Kết quả thua 500.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ số tiền 1.200.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Trương Thị H2 ngồi đánh bạc.
9. Phạm Văn Ch mang theo số tiền 1.000.000 đồng để tham gia đánh bạc. Văn Ch tham gia đặt 15 ván (mỗi ván đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng). Kết quả thắng 200.000 đồng thì bị bắt quả tang, thu giữ trên người Phạm Văn Ch số tiền 1.000.000 đồng và thu giữ 200.000 đồng trên chiếu bạc tại vị trí Văn Ch ngồi đánh bạc.
10. Phạm Văn T mang theo số tiền 800.000 đồng để tham gia đánh bạc. Phạm Văn T tham gia đặt 04 ván (mỗi ván 200.000 đồng). Kết quả thua 800.000 đồng thì Phạm Văn T nghỉ chơi đi về nhà.
11. Cao V mang theo số tiền 460.000 đồng để tham gia đánh bạc, V tham gia đặt 07 ván (mỗi ván 100.000 đồng), kết quả thua 400.000 đồng thì V nghỉ chơi đi về nhà.
12. Trần Công Ngh mang theo số tiền 200.000 đồng và mượn của Trần Minh Đ số tiền 200.000 đồng để tham gia đánh bạc. Công Ngh tham gia đặt 02 ván (mỗi ván đặt 200.000 đồng). Kết quả hòa (thắng 01 ván và thua 01 ván), Công Ngh trả cho Minh Đ 200.000 đồng rồi nghỉ chơi đi về nhà.
Tổng số tiền các bị cáo khai đem theo dùng đánh bạc là 36.360.000 đồng. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm xác định tổng số tiền dùng để đánh bạc của các bị cáo là 20.960.000 đồng (hai mươi triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).
2. Vật chứng:
- 02 bộ bài tây loại bài 52 lá; 01 đĩa nhựa màu trắng; 01 cái chăn màu xanh-trắng kích thướt 1,8m x 2m.
- Số tiền đánh bạc 20.960.000 đồng (hai mươi triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).
- Thu giữ của Võ Thị Thanh Th số tiền 12.650.000 đồng (mười hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) không liên quan đến hành vi đánh bạc.
3. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 110/2019/HS-ST ngày 22-10-2019 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 11/2019/TB-TA ngày 22-10-2019 của Tòa án nhân dân huyện X, đã quyết định như sau:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Tuyên bố các bị cáo Lê Thị Tr, Phạm Di Thành Hữu H3, Trần Minh Đ, Võ Thị Thùy Tr1, Lê Thị Kim H1, Võ Thị Thanh Th, Nguyễn Thị H2, Phạm Văn Ch, Phạm Văn T, Cao V và Trần Công Ngh phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Xử phạt Nguyễn Thị H 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo vào trại thụ hình án.
- Xử phạt Lê Thị Tr 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Xử phạt Phạm Di Thành Hữu H3 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Xử phạt Trần Minh Đ 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền các bị cáo Lê Thị Tr, Phạm Di Thành Hữu H3 và Trần Minh Đ, mỗi bị cáo phải nộp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.
- Xử phạt Lê Thị Kim H1 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Xử phạt Võ Thị Thanh Th 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Xử phạt Trần Công Ngh số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
- Xử phạt Trương Thị H2 số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
- Xử phạt Phạm Văn Ch 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt Võ Thị Thùy Tr1 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt Phạm Văn T 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.
- Xử phạt Cao V 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ thi hành án và giao về địa phương đối với các bị cáo được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ theo quy định, quyết định về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
4. Kháng cáo:
Trong thời hạn luật định, bị cáo Nguyễn Thị H kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị được hưởng án treo.
5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; do đó, mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Về kháng cáo:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Cấp sơ thẩm xác định: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt; thuộc các trường hợp được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
+ Cấp phúc thẩm: Bị cáo cung cấp đơn được chính quyền địa phương xác nhận, thể hiện bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo phải một mình nuôi 04 con nhỏ vì đã ly thân chồng; thuộc trường hợp được quy định tại 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 08 tháng tù là không phù hợp với quy định tại Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; hành vi bộc phát nhất thời; số tiền thu lợi bất chính không lớn (300.000 đồng) và chủ yếu dùng để mua nước uống và thức ăn cho những người đánh bạc; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và phải lao động để nuôi 04 con nhỏ. Việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là không cần thiết; do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chuyển sang hình phạt tiền là đủ răn đe, giáo dục và thu ngân sách Nhà nước.
[3] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Đối với phần trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp một phần với nhận định nêu trên, nên được chấp nhận phần phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị H;
Sửa về hình phạt đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 110/2019/HS-ST ngày 22-10- 2019 của Tòa án nhân dân huyện X.
1. Tội danh và hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước về tội “Gá bạc”.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo khác, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội gá bạc số 92/2020/HS-PT
Số hiệu: | 92/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về