Bản án về tội gá bạc số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 04/07/2023 VỀ TỘI GÁ BẠC

Ngày 04 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn T Sinh ngày: 17/10/1977 tại tỉnh Hải Dương Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện M, tỉnh G.

Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn M (đã chết) và bà Vũ Thị T (Sn 1950); bị cáo có vợ Trương Thị H và 02 con (lớn nhất Sn 2004, nhỏ nhất Sn 2009).

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: tốt Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2023 đến ngày 16/01/2023. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

2. Trương Thị H (tên gọi khác: U) Sinh ngày: 04/3/1982 tại tỉnh G Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện Mg, tỉnh G.

Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn B (Sn 1947) và bà Nguyễn Thị Ng (Sn 1952); bị cáo có chồng Phạm Văn T và 02 con (lớn nhất Sn 2004, nhỏ nhất Sn 2009).

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: tốt Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2023 đến ngày 09/01/2023. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1- Bà Hoàng Thị Diễm M – sinh năm: 1977 Trú tại: Tổ dân phố 4, thị trấn K, huyện Mg, tỉnh G. (Vắng mặt)

2. Ông Lê Thanh H – sinh năm: 1979 Trú tại: Thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G. (Vắng mặt)

3. Bà Lâm Thị H – sinh năm: 1975 Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện M, tỉnh G. (Vắng mặt)

4. Ông Thiều Ngọc C – sinh năm: 1993 Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện M, tỉnh G. (Vắng mặt)

5. Ông Trương Bá Đ – sinh năm: 1975 Trú tại: Tổ dân phố 4, thị trấn K, huyện M, tỉnh G. (Vắng mặt)

6. Ông Nguyễn Thanh T – sinh năm: 1978 Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện M, tỉnh G. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 06/01/2023, Hoàng Thị Diễm M, Lê Thanh H, Lâm Thị H và Thiều Ngọc C đến nhà của vợ chồng Phạm Văn T và Trương Thị H chơi. Trong lúc nói chuyện thì Phạm Văn T rủ Lê Thanh H, Hoàng Thị Diễm M, Lâm Thị H chơi đánh bạc với hình thức chơi “Tiến lên” thắng thua bằng tiền thì tất cả đồng ý. Sau đó Phạm Văn T, Lê Thanh H, Hoàng Thị Diễm M và Lâm Thị H đi xuống phòng bếp thì T mang 02 bộ bài tú lơ khơ đã sử dụng trên trần tủ mà Trương Thị H mua trước đây về phục vụ vui chơi cho gia đình, 01 chiếc chiếu nhựa màu đỏ và 01 chiếc mền màu đỏ để chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền. Một lúc sau Trương Bá Đ, Nguyễn Thanh T đến nhà Phạm Văn T, Trương Thị H chơi. Thấy vậy Phạm Văn T bàn bạc với Trương Thị H đi mua bài tú lơ khơ để các đối tượng sử dụng đánh bạc. Sau khi Trương Thị H mua 03 lốc bài tú lơ khơ (ba mươi bộ bài) tại tiệm tạp hóa “Tố T” do bà Trần Thị Tố T (Sinh năm: 1983) trú tại thôn Tân Phú, xã ĐakDjrăng, huyện Mang Yang, tỉnh G mang về thì Nguyễn Thanh T rủ Trương Thị H, Trương Bá Đ và Thiều Ngọc C chơi đánh bạc với hình thức chơi “bài phỏm” thắng thua bằng tiền thì tất cả đồng ý. Sau đó Phạm Văn T bàn bạc với Trương Thị H thu tiền “xâu” của những người tham gia đánh bạc. Tại chiếu bạc Phạm Văn T tham gia đánh bạc với hình thức chơi “Tiến lên” thắng thua bằng tiền thì T yêu cầu Lê Thanh H, Hoàng Thị Diễm M, Lâm Thị H chung tiền xâu cho T (chủ nhà) số tiền 10.000 đồng cho mỗi lần“ăn trắng”. Lúc này Trương Thị H mang 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh và 01 chiếc mền màu đỏ để các đối tượng chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền. Tại chiếu bạc mà Trương Thị H chơi đánh bạc với hình thức chơi “bài phỏm” thì H yêu cầu Nguyễn Thanh T, Trương Bá Đ và Thiều Ngọc C chung tiền xâu cho H (chủ nhà) số tiền 20.000 đồng cho mỗi lần “ù” hoặc “ù tròn”, việc thu tiền “xâu” của Phạm Văn T và Trương Thị H không giới hạn số tiền thu được. Quá trình điều tra xác định tại chiếu bạc thứ nhất thì Phạm Văn T sử dụng số tiền 300.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Hoàng Thị Diễm M sử dụng số tiền 1.400.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Lê Thanh H sử dụng số tiền 550.000 đồng vào mục đích đánh bạc và Lâm Thị H sử dụng số tiền 2.100.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Tại chiếu bạc thứ hai thì Trương Thị H sử dụng số tiền 800.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Thiều Ngọc C sử dụng số tiền 600.000 đồng vào mục đích đánh bạc, Nguyễn Thanh T sử dụng số tiền 1.330.000 đồng vào mục đích đánh bạc và Trương Bá Đ sử dụng số tiền 600.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày khi các đối tượng đang thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền thì bị lực lượng Công an huyện Mang Yang bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc thứ nhất tổng số tiền mà Phạm Văn T, Lê Thanh H, Hoàng Thị Diễm M và Lâm Thị H sử dụng vào mục đích đánh bạc là 4.350.000 đồng cùng tang vật và thu giữ tại chiếu bạc thứ hai tổng số tiền Trương Thị H, Nguyễn Thanh T, Thiều Ngọc C và Trương Bá Đ sử dụng vào mục đích đánh bạc là 3.330.000 đồng cùng tang vật.

* Vật chứng thu giữ - 431 quân bài tú lơ khơ (đã qua sử dụng);

- 02 lốc bài tú lơ mỗi lốc có 10 bộ bài (chưa sử dụng);

- 04 bộ bài tú lơ khơ (chưa sử dụng);

- 01 chiếu chiếu nhựa màu đỏ;

- 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh;

- 02 chiếc mền màu đỏ.

- Tiền Việt Nam: 7.680.000 đồng được niêm phong bằng bì thư được dán kín, bên ngoài có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Đình Thống, Phạm Văn T và các dấu tròn màu đỏ, nội dung: “CƠ QUAN C SÁT ĐIỀU TRA * CÔNG AN HUYỆN MANG YANG - TỈNH GIA LAI. Ngày 28/3/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mang Yang gửi tại Kho bạc Nhà nước Mang Yang để chờ xử lý theo quy định.

Quá trình điều tra xác định những đồ vật, tài sản không sử dụng vào việc phạm tội gồm: 01 điện thoại cảm ứng, hiệu Redmi, màu xanh của Lê Thanh H; 01 điện thoại cảm ứng, hiệu Sam sung, màu vàng và 01 điện thoại cảm ứng, hiệu Vivo màu xanh của Phạm Văn T; 01 điện thoại cảm ứng, hiệu Sam sung màu vàng và 01 xe mô tô mang biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx của Lâm Thị H; 01 xe mô tô mang biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx của Trần Văn Tiến; 01 điện thoại cảm ứng, hiệu Sam sung màu đen của Hoàng Thị Diễm M; 01 ví da màu đen, 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại Iphone cảm ứng 06 plus, màu bạc và 01 xe mô tô mang biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx của Trương Bá Đ; 01 ví da màu nâu, 01 điện thoại cảm ứng, nhãn hiệu Iphone 12, màu xanh và 01 xe mô tô mang biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx của Nguyễn Thanh T; 01 điện thoại cảm ứng, hiệu oppo, màu đen của Thiều Ngọc C. Ngày 19/01/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mang Yang đã trao trả lại cho chủ sở hữu theo quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tại liệu số 03/QĐ - CQĐT ngày 19/01/2023.

Đối với Nguyễn Thanh T, Hoàng Thị Diễm M, Thiều Ngọc C và Lâm Thị H: Quá trình điều tra xác định T, M, C và H chưa có tiền án, tiền sự. Do đó hành vi của Nguyễn Thanh T, Hoàng Thị Diễm M, Thiều Ngọc C và Lâm Thị H không cấu thành tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Ngày 10/3/2023 Công an huyện Mang Yang, tỉnh G căn cứ điểm a khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ xử phạt Nguyễn Thanh T, Hoàng Thị Diễm M, Thiều Ngọc C và Lâm Thị H mỗi đối tượng số tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ.

Đối với Trương Bá Đ: Quá trình điều tra xác định ngày 02/7/2013 bị công an huyện Mang Yang xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc”, ngày 29/7/2013 Trương Bá Đ đã nộp phạt. Do đó hành vi của Trương Bá Đ không cấu thành tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Ngày 10/3/2023 Công an huyện Mang Yang, tỉnh G căn cứ điểm a khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ - CP của Chính phủ xử phạt Trương Bá Đ số tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ.

Đối với Lê Thanh H: Quá trình điều tra xác định ngày 22/4/2014 Lê Thanh H bị Tòa án nhân dân huyện Đak Đoa xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, về tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 tại bản án số 13/2014/HSST ngày 22/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đak Đoa; Áp dụng khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 phạt bổ sung bị cáo số tiền 15.000.000 đồng và buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; Ngày 02/01/2018 chấp hành xong hình phạt bổ sung số tiền 15.000.000 đồng và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm (theo biên lai thu số 0005472 ngày 02/01/2018 và phiếu thu số PT0000425 ngày 02/6/2014 của Chi cụ Thi hành án dân sự huyện Đăk Đoa). Do đó hành vi của Lê Thanh H không cấu thành tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Ngày 10/3/2023 Công an huyện Mang Yang, tỉnh G căn cứ điểm a khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ - CP của Chính phủ xử phạt Lê Thanh H số tiền 1.500.000 đồng là có căn cứ.

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh G truy tố các bị cáo Phạm Văn T và Trương Thị H về tội “Gá bạc” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Gá bạc” và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T số tiền từ 70.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng, xử phạt bị cáo Trương Thị H số tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy đối với: 431 quân bài tú lơ khơ; 02 lốc bài tú lơ khơ mỗi lốc có 10 bộ bài; 04 bộ bài tú lơ khơ; 01 chiếu nhựa màu đỏ; 01 chiếu nhựa màu xanh; 02 chiếc mền màu đỏ; tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 7.680.000 đồng.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của các bị cáo: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì lần đầu phạm tội với số tiền thu lợi nhỏ, bản thân chưa từng vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Điều tra viên Công an huyện Mang Yang, tỉnh G, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh G, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án cũng như các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy có đủ cơ sở xác định: Ngày 06/01/2023, Phạm Văn T và Trương Thị H đã sử dụng chỗ ở của mình cho 02 chiếu bạc trong cùng một lúc với tổng số tiền dùng đánh bạc trị giá 7.680.000 đồng (trong đó chiếu bạc thứ nhất 4.350.000 đồng, chiếu bạc thứ hai 3.330.000 đồng). Vì vậy cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng nếp sống văn minh của cộng đồng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo T với vai trò là người khởi xướng, bị cáo H với vai trò đồng phạm giúp sức, cả hai đã có sự thống nhất ý chí khi thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về hình phạt: Các bị cáo vi phạm pháp luật hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật. Xét các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu có mức độ, quy mô gá bạc nhỏ, có nhân thân tốt, các bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lợi về kinh tế nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp, đảm bảo đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Bị cáo T là người khởi xướng việc phạm tội nên phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo H.

[8] Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, qua quá trình điều tra xác định hành vi của những người này không cấu thành tội “Đánh bạc”, do đó Công an huyện Mang Yang, tỉnh G đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức “Phạt tiền” đối với những người này là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đối với những đồ vật, tài sản không sử dụng vào việc phạm tội đã được cơ quan C sát điều tra Công an huyện Mang Yang trả lại cho chủ sở hữu theo đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với vật chứng là: 431 quân bài tú lơ khơ; 02 lốc bài tú lơ khơ, mỗi lốc có 10 bộ bài; 04 bộ bài tú lơ khơ; 01 chiếu nhựa màu đỏ; 01 chiếu nhựa màu xanh; 02 chiếc mền màu đỏ, xét thấy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 7.680.000 đồng (Bảy triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng) là tiền dùng vào việc đánh bạc, đang gửi giữ tại Kho bạc Nhà nước Mang Yang, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T và Trương Thị H phạm tội “Gá bạc ”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng) Xử phạt bị cáo Trương Thị H số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy đối với: 431 quân bài tú lơ khơ; 02 lốc bài tú lơ khơ, mỗi lốc có 10 bộ bài; 04 bộ bài tú lơ khơ; 01 chiếu nhựa màu đỏ; 01 chiếu nhựa màu xanh; 02 chiếc mền màu đỏ.

(Đặc điểm vật chứng cụ thể theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 09 tháng 5 năm 2023 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Mang Yang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang).

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 7.680.000 đồng (Bảy triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng) (Theo Biên bản giao nhận tài sản ngày 29 tháng 3 năm 2023 giữa Công an huyện Mang Yang và Kho bạc Nhà nước Mang Yang)

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (04/7/2023) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gá bạc số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về