TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 176/2021/HSST NGÀY 23/08/2021 VỀ TỘI GÁ BẠC
Ngày 23/8/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dânthành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 187/2021/HSST, ngày 29/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/QĐXXST-HS ngày 11/8/2021 đối với bị cáo:
Trần Văn T, sinh năm 1974.
Nơi ĐKHKTT: Khu Đô thị T, phường V, tỉnh B; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1948; Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ 02; Vợ: Nguyễn Thị P sinh năm 1974; Con có 03 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2012.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ tõ ngµy 30/3/2021 đến ngày 08/4/2021 được thay thế bằng biện pháp ''Cấm đi khỏi nơi cứ trú '' (có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Tiến N, sinh năm 1974; HKTT: Khu Y, phường K, thành phố B, tỉnh Bắ.
- Chị Trần Thị H, sinh năm 1984; HKTT: Phường S, thành phố C, tỉnh H - Chị Ninh Thị O, sinh năm 1963; HKTT: Phường N, quận L, thành phố H.
- Anh Phùng Chí Q, sinh năm 1966; HKTT: Khu 3, phường V thành phố B, tỉnh B.
- Anh Nguyễn Minh S, sinh năm 1977; anh Lê Thanh S, sinh năm 1975; ông Nguyễn Tiến T, sinh năm 1949; Cùng HKTT: Khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B. (Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều xin vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ, ngày 30/3/2021, Trần Văn T đã có hành vi cho mượn phòng tại tầng hai nhà mình ở khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B để 02 chiếu bạc gồm 08 đối tượng đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh ''phỏm''. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, lực lượng Công an phường V, thành phố B kiểm tra, bắt quả tang, tại chiếu bạc thứ nhất có 04 đối tượng tham gia đánh bạc gồm: Nguyễn Tiến N, Nguyễn Tiến T, Ninh Thị O, Trần Thị H, thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 3.410.000 đồng (Ba triệu bốn trăm mười ngàn đồng). Tại chiếu bạc thứ hai có 04 đối tượng Trần Văn T, Phùng Chí Q, Nguyễn Minh S, Lê Thanh S, thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 2.150.000 đồng (Hai triệu một trăm năm mươi ngàn đồng). Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 5.560.000 đồng (Năm triệu năm trăm sáu mươi ngàn đồng).
Tại chiếu bạc thứ nhất gồm: Nguyễn Tiến N, sinh năm 1974, HKTT: Khu Y, phường K, thành phố B, tỉnh B; Nguyễn Tiến T, sinh năm 1949, HKTT: Khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B; Trần Thị H, sinh năm 1984, HKTT: Phường S, thành phố C, tỉnh H và Ninh Thị O, sinh năm 1963, HKTT: Phường N, quận L, thành phố H; thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 3.410.000 đồng (trong đó có 140.000 đồng tiền hồ đựng trong lọ nhựa).
Tại chiếu bạc thứ hai gồm: Trần Văn T; Phùng Chí Q, sinh năm 1966, HKTT: Khu 3, phường V, thành phố B, tỉnh B; Nguyễn Minh S, sinh năm 1977 và Lê Thanh S, sinh năm 1975 cùng HKTT: Khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B; thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 2.150.000 đồng (trong đó có 20.000 đồng tiền hồ đựng trong lọ nhựa).
Bản cáo trạng số: 116/CT-VKSTP ngày 27/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Gá bạc” theo điểm b, khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên toà bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B: Khoảng 20 giờ ngày 30/3/2021, Nguyễn Tiến N, Nguyễn Tiến T, Trần Thị H và Ninh Thị O tới nhà bị cáo ở khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B uống nước. Sau đó N, T, H và O rủ nhau lên tầng hai đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh ''phỏm'' và thống nhất ai ù sẽ được của những người còn lại mỗi người 50.000 đồng đồng thời bỏ ra 20.000 đồng tiền hồ cho bị cao, 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa đựng tiền hồ do bị cáo lấy để N, T, H và O đánh ''phỏm'' ăn tiền. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Phùng Chí Q, Nguyễn Minh S và Lê Thanh S đến nhà bị cáo chơi. Quá trình ngồi uống nước, Q, S, S và T rủ nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh phỏm và thống nhất ai ù sẽ được của những người còn lại mỗi người 50.000 đồng đồng thời bỏ ra 10.000 đồng tiền hồ cho bị cáo , 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa đựng tiền hồ do bị cáo chuẩn bị, cùng nhau đánh bạc ăn tiền tại tầng hai nhà bị cáo T, ngồi cạnh bàn phỏm của N, T, H và O. Trong thời gian chờ xét xử bị cáo nhận thức hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, ăn năn và đã tự nguyện nộp số tiền 10.200.000đồng (trong đó 10.000.000đ tiền phạt và 200.000đ tiền án phí hình sự thẩm) tại Chi cục Thi hành án thành phố B để bồi thường khắc phục hậu quả.
Tất cả thỏa thuận cách thức đánh bạc dưới hình thức chơi phỏm như sau: Mỗi bàn phỏm sử dụng 01 bộ tú lơ khơ 52 quân, chia đều theo thứ tự cho 04 người, mỗi người 09 quân bài, người chia được 10 quân bài và là người đánh đầu tiên, số quân bài còn lại để ở giữa. Người chia sẽ đánh 01 quân bài trong số những quân bài được chia cho người ngồi cạnh bên tay phải. Nếu người này thấy ghép được phỏm (03 quân bài giống nhau hoặc 03 quân bài liên tục cùng chất) thì sẽ ăn quân bài đó rồi đánh 01 quân bài sang người ngồi cạnh bên tay phải, nếu người này thấy không ghép được phỏm thì bốc 01 quân bài ở giữa rồi đánh 01 quân bài sang người ngồi cạnh bên tay phải. Cứ tiếp tục như vậy cho tới khi hết quân bài ở giữa hoặc có người ù (03 phỏm hoặc gửi hết các quân bài trên tay). Khi đánh lượt cuối cùng, ai bị người bên cạnh ăn 01 quân bài là ăn chốt. Sau khi hết quân bài ở giữa, người chơi hạ tất cả phỏm mình có, sau đó gửi quân bài có thể ghép vào phỏm của người hạ trước rồi đánh quân bài cuối cùng. Các quân bài còn lại trên tay được giữ để tính điểm, ai ít điểm nhất là người thắng cuộc, ai ít điểm thứ hai về nhì, ít điểm thứ ba về bà và nhiều điểm nhất về bét, ai không có phỏm là cháy. Người về nhì phải trả cho người thắng 10.000 đồng, người về thứ ba phải trả cho người thắng 20.000 đồng, người về bét phải trả cho người thắng 30.000 đồng, người cháy phải trả cho người thắng 40.000 đồng, nếu ai ù thì mỗi người chơi (03 người chơi còn lại) phải trả người ù 50.000 đồng.
Về số tiền đánh bạc cụ thể như sau: N sử dụng 960.000 đồng để đánh bạc; O sử dụng 640.000 đồng để đánh bạc; H sử dụng 1.420.000 đồng để đánh bạc; T sử dụng 390.000 đồng để đánh bạc, tổng số tiền N, O, H, T đánh bạc là 3.410.000 đồng. Bị cáo sử dụng 270.000 đồng để đánh bạc; S sử dụng 980.000 đồng để đánh bạc; S sử dụng 280.000 đồng để đánh bạc; Q sử dụng 620.000 đồng để đánh bạc, tổng số tiền T, S, S, Q đánh bạc là 2.150.000 đồng. Bị cáo và các đối tượng tham gia đánh bạc khai nhận khi bị lực lượng Công an kiểm tra, lập biên bản thu giữ tất cả số tiền mang theo đều ở trên chiếu bạc, không rõ thắng thua như thế nào. Bị cáo thừa nhận bị cáo dùng nhà ở của mình cho một số đối tượng đánh bạc được thua bằng tiền và bị Công an phường V kiểm tra, bắt quả tang, lập biên bản là hoàn toàn đúng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B trình bày lời luận tội đối với bị cáo Trần Văn T, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị kết tội bị cáo T về tội ''Gá bạc'' theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội ''Gá bạc'', thời gian thử thách 30 đến 36 tháng, giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân phường V, thành phố B, tỉnh B để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng sung quỹ Nhà nước.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2016: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 5.560.000 đồng (Năm triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng); Tịch thu tiêu hủy 04 bộ tú lơ khơ 52 quân, 02 lọ nhựa.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với các đối tượng Nguyễn Tiến T, Nguyễn Tiến N, Ninh Thị O, Trần Thị H, Phùng Chí Q, Nguyễn Minh S, Lê Thanh S và bị can Trần Văn T có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm, tuy nhiên số tiền đánh bạc chưa tới mức phải chịu trách nhiệm hình sự nên Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hình vi trên là phù hợp.
Đối với chị Nguyễn Thị P(vợ T) và các con, tại thời điểm các đối tượng đánh bạc chị Phương và các con không có ở nhà, không biết về sự việc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không đề cập xử lý là phù hợp.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận gì mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Đã thực hiện đúng theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập và thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với thời gian, địa điểm phạm tội, phù hợp lời khai bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, lời khai của người làm chứng, biên bản vụ việc, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và công bố công khai tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 30/3/2021, Trần Văn T đã có hành vi cho mượn phòng tại tầng hai nhà mình ở khu T, phường V, thành phố B, tỉnh B để 02 chiếu bạc gồm 08 đối tượng đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, lực lượng Công an phường V, thành phố B kiểm tra, bắt quả tang, tại chiếu bạc thứ nhất có 04 đối tượng tham gia đánh bạc gồm: Nguyễn Tiến N, Nguyễn Tiến T, Ninh Thị O, Trần Thị H, thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 3.410.000 đồng (Ba triệu bốn trăm mười ngàn đồng). Tại chiếu bạc thứ hai có 04 đối tượng Trần Văn T, Phùng Chí Q, Nguyễn Minh S, Lê Thanh S, thu giữ 02 bộ tú lơ khơ 52 quân, 01 lọ nhựa và số tiền 2.150.000 đồng (Hai triệu một trăm năm mươi ngàn đồng). Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 5.560.000đ (Năm triệu năm trăm sáu mươi ngàn đồng) nên bị cáo đã phạm tội ''Gá bạc'' theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố và đề nghị kết tội bị cáo về tội ''Gá bạc'' theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng điều luật.
Hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, số tiền thu lợi bất chính nhỏ, trong thời gian chờ xét xử bị cáo tự nguyện nộp một số tiền nhằm khắc phụ hậu quả và hiện có nơi cư trú rõ ràng đủ điều kiện giám sát, giáo dục tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, tự nguyện nộp 10.200.000đồng (trong đó 10.000.000đồng tiền phạt và 200.000đồng tiền án phí hình sự thẩm) tại Biên lai số AA/2019/0000049, ngày 23/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B để bồi thường khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hiện nay, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng đủ điều kiện giám sát, giáo dục tại địa phương. Đối chiếu theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thấy bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, không cần thiết phải buộc bị cáo cách ly khỏi xã hội mà chỉ cần cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo thành công dân tốt.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 20.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.
Xác nhận bị cáo đã nộp 10.200.000đồng (trong đó 10.000.000đồng tiền phạt và 200.000đồng tiền án phí hình sự thẩm) tại Biên lai số AA/2019/0000049, ngày 23/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, do vậy buộc bị cáo nộp tiếp 10.000.000đồng tiền phạt sung ngân sách Nhà nước.
[5] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Xác định số tiền 5.560.000đ thu trên 02 chiếu bạc là tiền dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 04 bộ tú lơ khơ 52 quân, 02 lọ nhựa là công cụ sử dụng vào việc đánh bạc, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác: Đối với Nguyễn Tiến T, Nguyễn Tiến N, Ninh Thị O, Trần Thị H, Phùng Chí Q, Nguyễn Minh S, Lê Thanh S và bị can Trần Văn T có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm, tuy nhiên số tiền đánh bạc chưa tới mức phải chịu trách nhiệm hình sự nên Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hình vi trên là phù hợp.
Đối với chị Nguyễn Thị P (vợ T) và các con, tại thời điểm các đối tượng đánh bạc chị Phương và các con không có ở nhà, không biết về sự việc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không đề cập xử lý là phù hợp.
[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b, khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 329; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Gá bạc”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù về tội „‟Gá bạc‟‟nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường V, thành phố B, tỉnh B để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo đã nộp 10.200.000đồng (trong đó 10.000.000đồng tiền phạt và 200.000đồng tiền án phí hình sự thẩm) tại Biên lai số AA/2019/0000049, ngày 23/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, do vậy buộc bị cáo nộp tiếp 10.000.000đồng (Mười triệu đồng) tiền phạt sung ngân sách Nhà nước.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 5.560.000 đồng (Năm triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) thu trên 02 chiếu bạc; Tịch thu tiêu hủy 04 bộ tú lơ khơ 52 quân, 02 lọ nhựa (Theo biên bản giao nhận tài sản, vật chứng số 145/GN-CCTHADS, ngày 03/8/2021 giữa Công an thành phố B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm (Xác nhận bị cáo đã nộp đủ 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm (trong tổng số tiền bị cáo đã nộp 10.200.000đồng gồm 10.000.000đồng tiền phạt và 200.000đồng tiền án phí hình sự thẩm) tại Biên lai số AA/2019/0000049, ngày 23/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B) Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./
Bản án về tội gá bạc số 176/2021/HSST
Số hiệu: | 176/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về