TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI ĐƯA HỐI LỘ
Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Lâm Hoàng M; giới tính: Nam; sinh năm: 1988; Nơi sinh: Cần Thơ, nơi cư trú: ấp B, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tiếp thị; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lâm Hiền H và bà Nguyễn Thị X. Vợ: Phạm Ngọc P (đã ly hôn), con: Lâm Cát T sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ từ ngày 17/8/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 01 giờ 40 phút ngày 25/02/2021, Tổ 21 tuần tra trên tuyến đường Trần Hưng Đạo, thuộc địa bàn khóm 1, phường Tân Thành, thành phố C thì phát hiện xe ô tô biển kiểm soát 65A-068.xx do bị cáo Lâm Hoàng M điều khiển, có hành vi vi phạm, không mở đèn chiếu sáng vào ban đêm và người ngồi trên xe là chị Hồ Thanh T không thắt dây an toàn, nên lực lượng tổ 21 ra hiệu lệnh yêu cầu dừng xe để kiểm tra, sau khi bị cáo được thông báo lỗi vi phạm nêu trên, bị cáo đi đến gặp ông Lê Hoàng Đ đang ngồi trên xe ô tô Cảnh sát 113 là người trực tiếp chỉ đạo kiểm tra, bị cáo thừa nhận với ông Đ là đã có uống bia trước khi lái xe nên ông Đ chỉ đạo lực lượng Tổ 21 đo nồng độ cồn trong hơi thở của bị cáo để xử lý, thì bị cáo lấy toàn bộ số tiền 2.140.000đ của bị cáo đưa cho ông Đ để xin bỏ quan lỗi vi phạm, cho nhận lại xe, không xử lý vi phạm nồng độ cồn, tuy nhiên ông Đ không nhận tiền mà chỉ đạo lực lượng mời bị cáo về trụ sở Cảnh sát 113 Công an tỉnh C để đo nồng độ cồn, kết quả kiểm tra nồng độ cồn của bị cáo là 0,644mg/lít khí thở nên Tổ 21 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và lập biên bản về việc bị cáo đưa hối lộ cho ông Đ với số tiền 2.140.000đ và tạm giữ tang vật.
Tang vật thu giữ là Tiền Việt Nam 2.140.000đ gồm:
- 04 tờ tiền mệnh giá 500.000đ có số seri: NZ18814465; NZ 18814466; NZ 18814467; NZ 18814468.
- 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ có số seri EP17196148 - 01 tờ tiền mệnh giá 20.000đ có số seri PM 20474856 - 02 tờ tiền mệnh giá 10.000đ có số seri VR 06563753; IH 07439255 Đồng thời, lực lượng đã photo hình ảnh của tang vật thể hiện bằng 06 tờ giấy A4 có chữ ký và ghi rõ họ tên của Lâm Hoàng M lưu trong hồ sơ vụ án.
Ngoài ra còn tạm giữ 01 xe ô tô biển kiểm soát 65A – 068.08 và 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2. Ngày 08/4/2021 đã trả lại cho bị cáo.
Tại cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 26/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố bị cáo M về tội “đưa hối lộ” theo điểm a Khoản 1 Điều 364 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát bảo vệ toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo M và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 364, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, tuyên bố bị cáo M phạm tội “đưa hối lộ”, xử phạt bị cáo M hình phạt tiền, từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ. Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, sung quỹ nhà nước số tiền 2.140.000đ.
- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã có hành vi, quyết định tố tụng đúng quy định.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Hoàng M thừa nhận, vào lúc 01 giờ 40 phút ngày 25/02/2021, tại khu vực khóm 1, phường Tân Thành, thành phố C, tỉnh C, bị cáo có hành vi dùng tiền, số tiền 2.140.000đ để đưa cho ông Lê Hoàng Đ là Tổ phó Tổ tuần tra, kiểm soát thuộc lực lượng Công an tỉnh C là người có thẩm quyền chỉ đạo việc tuần tra, kiểm tra khi phát hiện bị cáo có hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ để ông Đ không lâp biên bản và bỏ qua lỗi vi phạm về nồng độ cồn khi lái xe ô tô tham gia giao thông. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo đã phạm tội “đưa hối lộ” theo điểm a khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự năm 2015 đúng như Viện kiểm sát truy tố.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan quản lý nhà nước của cán bộ nhà nước mà cụ thể là lực lượng vũ trang đang làm nhiệm vụ, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, của cơ quan, cán bộ nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra cũng là để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến thái độ của bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và có địa chỉ cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nên áp dụng hình phạt tiền là phù hợp quy định pháp luật, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng đảm bảo được tính răn đe và thể hiện được chính sách khoan hồng của nhà nước đối với bị cáo. Do đó, mức hình phạt tiền Kiểm sát viên đề nghị là có căn cứ.
[3] Về tang vật của vụ án: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Số tiền bị cáo dùng để đưa hối lộ 2.140.000đ là tiền bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước.
Đối với xe ô tô biển kiểm soát 65A – 068.08 và 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.
[4] Đối với hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ đã được xử lý đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với chị Hồ Thanh T đi cùng xe bị cáo không biết về hành vi đưa hối lộ của bị cáo nên không xử lý là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 364, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 331, 333 của của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên bố bị cáo Lâm Hoàng M phạm tội “Đưa hối lộ”.
Xử phạt bị cáo Lâm Hoàng M số tiền 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng).
Về tang vật của vụ án số tiền 2.140.000đ (Hai triệu một trăm bốn mươi ngàn đồng) đã thu giữ của bị cáo gồm: 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng có số seri: NZ18814465; NZ 18814466; NZ 18814467; NZ 18814468; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng có số seri EP17196148; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng có số seri PM 20474856; 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có số seri VR 06563753; IH 07439255 đang do Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố C quản lý theo Ủy nhiệm chi số 03 ngày 24/02/2022 tịch thu, sung quỹ nhà nước.
Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng), bị cáo phải nộp (chưa nộp).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội đưa hối lộ số 32/2022/HS-ST
Số hiệu: | 32/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về