Bản án về tội đe dọa giết người số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI ĐE DỌA GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Th mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Công K; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 20 tháng 11 năm 1977 tại: tỉnh Th; Nơi cư trú: xóm T2, xã T1, huyện Đ, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Nguyễn Công L, sinh năm 1948 và bà Ma Thị H, sinh năm 1948; Anh chị em ruột: Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 02; Vợ: Ma Thị T4, sinh năm: 1976; Con: có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 24/6/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, có mặt.

- Bị hại: Chị Dương Thị H, sinh năm 1974, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Xóm XS, xã TS, huyện V, tỉnh T.

- Ngƣời làm chứng:

+ Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1952, vắng mặt.

+ Chị Lê Thị N, sinh năm 1976, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm XS, xã TS, huyện V, tỉnh T.

+ Chị Vũ Thị V2, sinh năm 1978, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố TL, thị trấn Đ, huyện P, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Công K, sinh năm 1977, nơi cư trú: xóm T2, xã T1, huyện Đ, tỉnh T và bà Dương Thị H, sinh năm 1974, nơi cư trú: Xóm XS, xã TS, huyện V, tỉnh T quen nhau qua mạng xã hội Facebook và có quan hệ tình cảm từ năm 2022. Đến khoảng đầu tháng 6 năm 2023, K và bà H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bà H nhiều lần đề nghị dừng mối quan hệ nhưng K không đồng ý. H đã chặn toàn bộ liên lạc của K và bỏ nhà đi đến ở nhờ nhà của bà Vũ Thị V2, sinh năm 1978, nơi cư trú: tổ dân phố Tân Lập, thị trấn Đu, huyện Phú Lương để K không tìm được. Ngày 21/6/2023, bà H trở về nhà tại Xóm XS, xã TS, huyện V nhưng do lo sợ K sẽ tìm đến nên bà H đã nhờ bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1952 là người ở cùng xóm đến nhà ở cùng. Khi biết tin bà H đã về, K mang theo 01 con dao loại dao bấm, bằng kim loại màu đen, có một lưỡi sắc, mũi nhọn, chiều dài 11,5 cm, khi bấm mũi dao ra dài cả con dao là 20cm; 01 dùi cui điện chiều dài 16,5 cm ở đầu dùi cui có hai đầu nhọn bằng kim loại, giữa hai đầu nhọn có bóng đèn. K đi xe máy từ nhà tại xóm T2, xã T1, huyện Đ đến tìm bà H rồi để xe cách nhà bà H 800 mét và đi bộ. Khoảng 19 giờ ngày 21/6/2023, K đến nơi thì thấy bà H và bà Tr đang ngồi xem tivi, K sử dụng 01 con dao mang theo có đặc điểm như trên kề vào cổ bà H và dùng dùi cui điện dí vào người phía bên trái của bà H và đe doạ “Bây giờ muốn sống hay muốn chết”, bà H nói “Muốn sống chứ ai muốn chết”. Thấy K đe doạ giết bà H, bà Tr nói “Chúng tôi là phụ nữ, trong tay không có gì, chú giết lúc nào chẳng được, chú cứ bình tĩnh”. Nghe bà T nói vậy, K dùng dao chỉ về phía bà Tr và dùng dùi cui điện dí vào người bà Tr nhưng không bấm điện, khi lấy dùi cui ra khỏi người bà Tr mới bấm điện nhằm tạo tiếng nổ để dọa bà Tr nhưng không gây ra thương tích gì, với mục đích là không cho bà Tr đi ra ngoài gọi mọi người. Sau đó, K tiếp tục dùng dao kề vào cổ bà H, dùng dùi cui điện dí vào phần người phía bên trái bà H và tiếp tục đe dọa “Bây giờ có cho anh cơ hội quay lại không, nếu không thì cả hai cùng chết”. Bà H lo sợ nói “Người ta 70 tuổi người ta còn muốn sống, mình như thế này thì làm sao phải chết”, K đe doạ bà H “Bây giờ không ở được với nhau thì chỉ có chết thôi”, bà H nói với K “Bỏ dao đi rồi ngồi xuống nói chuyện”. Khi nghe thấy bà H nói như vậy thì K vứt dao và dùi cui điện vào trong vườn trồng ngô trước cửa nhà bà H. Lúc này, bà Tr đã đi ra ngoài bằng cửa nhà bếp và chạy đến nhà bà Lê Thị N, sinh năm 1976, là người ở cùng xóm kể lại toàn bộ sự việc trên rồi cùng nhau quay lại nhà bà H. Khi mọi người đến khuyên ngăn, K dùng dao quắm có chuôi dao bằng gỗ dài 28cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 30cm, đai quấn dài 02cm trong nhà bà H giơ về phía bà N, yêu cầu không được can thiệp vào chuyện tình cảm của K và bà H. Khi Công an xã TS đến, K bỏ trốn xuống vườn ngô trước cửa nhà bà H rồi quay lại làm việc, sau đó K lấy xe máy trở về nhà. Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 22/6/2023, bà H gọi điện thoại cho K để khuyên K thì hai người tiếp tục cãi vã. Cùng ngày, K quay lại Công an xã TS để khai báo sự việc và thừa nhận có hành vi đe dọa bà H như nêu trên.

Quá trình làm việc, Công an xã TS lập biên bản sự việc, tạm giữ và niêm phong trong 01 thùng catton kín ký kiệu A1 gồm: 01 con dao quắm dài 60cm, chuôi dao bằng gỗ dài 28cm, lưỡi dao dài 30cm, đai cuốn dài 02cm; 01 con dao loại dao bấm bằng kim loại, màu đen, dài 11,5cm, khi bấm lưỡi dao ra có chiều dài là 20cm; 01 chiếc dùi cui điện dài 16,5cm, ở đầu dùi cui điện có hai đầu nhọn bằng kim loại, giữa hai đầu nhọn có bóng đèn, cũ đã qua sử dụng. Tại các biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của bà Tr và bà H xác định không có dấu vết, thương tích gì. Sau đó, đã chuyển hồ sơ cùng vật chứng đến Công an huyện V để giải quyết theo thẩm quyền.

Tiến hành mở niêm phong phong bì kín ký hiệu A2 bên trong có 01 USB chứa 01 file ghi âm cuộc gọi giữa bà H và bị cáo K vào rạng sáng ngày 22/6/2023 xác định: giọng nói của người nam trong đoạn ghi âm là của bị cáo Nguyễn Công K, giọng nữ trong đoạn ghi âm là của bà Dương Thị H. Trong cuộc nói chuyện, K yêu cầu bà H tiếp tục mối quan hệ tình cảm với K, không có nội dung thể hiện K đe dọa giết bà H.

Tiến hành mở niêm phong phong bì kín ký hiệu B bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh, ốp ngoài bằng nhựa màu nâu của Nguyễn Công K: Kiểm tra phần nhật ký cuộc gọi thấy có nhiều cuộc gọi đến, cuộc gọi đi trong các ngày 12/6/2023 đến ngày 22/6/2023 của điện thoại đến số điện thoại 0975.717.xxx và 0349.946.xxx (là số điện thoại của bà H), tuy nhiên có rất ít cuộc gọi được kết nối và có thời gian đàm thoại. Kiểm tra phần tin nhắn điện thoại với số điện thoại của bà H là 0349.946.xxx lúc 05 giờ 36 phút ngày 22/6/2023 với nội dung K hỏi vay bà H 100.000 đồng để đổ xăng, ngoài ra không có nội dung nào khác. Kiểm tra phần ứng dụng mạng xã hội Facebook thấy đang đăng nhập tài khoản “K Nguyen Cong” kết bạn với tài khoản “Quá Khứ Khó Quên” của bà Dương Thị H. Tại phần ứng dụng nhắn tin, gọi điện Messenger thấy có tin nhắn, cuộc gọi từ tài khoản tên “K Cong Nguyen” của K đến tài khoản “Quá Khứ Khó Quên” tuy nhiên bà H không trả lời, không nhận cuộc gọi. Sau khi kiểm tra đã niêm phong vào phong bì kín kí hiệu B1.

Do có hành vi trên tại Bản cáo trạng số 52/CT-VKSVN ngày 06/9/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Th đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Th để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Công K về tội “Đe dọa giết người” quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện V luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Công K về tội “Đe dọa giết người” quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị xử phạt đối với bị cáo như sau:

*Áp dụng khoản 1 Điều 133; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Công K từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam từ ngày 24/6/2023.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao quắm dài 60cm, đuôi dao bằng gỗ dài 28cm, lưỡi dao dài 30cm, đai cuốn dài 02cm; 01 con dao loại dao bấm bằng kim loại, màu đen, dài 11,5cm, khi bấm lưỡi dao ra có chiều dài là 20cm; 01 chiếc dùi cui điện dài 16,5cm, ở đầu dùi cui điện có hai đầu nhọn bằng kim loại, giữa hai đầu nhọn có bóng đèn, cũ đã qua sử dụng.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh, đã cũ đã qua sử dụng, ốp ngoài màu nâu, có số Imei 1: 3xxx11263099234, số Imei 2: 356613223099235 kèm theo hai thẻ sim số 0879.172.xxx và 0364.828.xxx đựng trong phong bì ký hiệu B1 của bị cáo K.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Bị cáo nhất trí với bản luận tội, không tranh luận với Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp để sớm được trở về với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều H pháp.

[2]. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù H với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Do mâu thuẫn tình cảm, khoảng 19 giờ ngày 21/6/2023, tại Xóm XS, xã TS, huyện V, Nguyễn Công K đã có hành vi sử dụng lời nói và 01 con dao loại dao bấm dài 11,5cm; 01 chiếc dùi cui điện dài 16,5cm đe dọa giết bà Dương Thị H làm cho bà H hoang mang, lo sợ và tin tưởng rằng việc đe doạ của K sẽ được thực hiện.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Công K đã phạm vào tội “Đe dọa giết người” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo theo tội danh và các điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Công K phạm tội lần đầu thuộc trường H ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Công L và mẹ đẻ là bà Ma Thị H1 được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s, khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[5]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường H nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường H ít nghiêm trọng; bị cáo có bố và mẹ được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Căn cứ hàn h vi phạm tội của bị cáo cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- 01 con dao quắm dài 60cm, đuôi dao bằng gỗ dài 28cm, lưỡi dao dài 30cm, đai cuốn dài 02cm; 01 con dao loại dao bấm bằng kim loại, màu đen, dài 11,5cm, khi bấm lưỡi dao ra có chiều dài là 20cm; 01 chiếc dùi cui điện dài 16,5cm, ở đầu dùi cui điện có hai đầu nhọn bằng kim loại, giữa hai đầu nhọn có bóng đèn, cũ đã qua sử dụng. Đây là vật chứng vụ án và vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh, đã cũ đã qua sử dụng, ốp ngoài màu nâu, có số Imei 1: 3xxx11263099234, số Imei 2:

35661322309923502 gắn hai thẻ sim số 0879.172.xxx và 0364.828.xxx. Đây là tài sản của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Dương Thị H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tại phiên toà về tội danh, khung hình phạt và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù H.

Bởi các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công K phạm tội “Đe dọa giết người”.

1. Về hình phạt:

*Căn cứ vào khoản 1 Điều 133; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Công K 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam từ ngày 24/6/2023.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Công K 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

3. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao quắm dài 60cm, đuôi dao bằng gỗ dài 28cm, lưỡi dao dài 30cm, đai cuốn dài 02cm; 01 con dao loại dao bấm bằng kim loại, màu đen, dài 11,5cm, khi bấm lưỡi dao ra có chiều dài là 20cm; 01 chiếc dùi cui điện dài 16,5cm, ở đầu dùi cui điện có hai đầu nhọn bằng kim loại, giữa hai đầu nhọn có bóng đèn, cũ đã qua sử dụng.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh, đã cũ đã qua sử dụng, ốp ngoài màu nâu, có số Imei 1:

3xxx11263099234, số Imei 2: 35661322309923502 gắn hai thẻ sim số 0879.172.xxx và 0364.828.xxx của bị cáo Nguyễn Công K đựng trong phong bì ký hiệu B1.

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện V theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện V với Chi cục THA dân sự huyện V, tỉnh Th ngày 31/8/2023).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Nguyễn Công K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đe dọa giết người số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về