Bản án về tội đe dọa giết người số 32/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 10/03/2023 VỀ TỘI ĐE DỌA GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 10/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2023/HSST ngày 30/01/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST – HS ngày 30/01/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Quang H, sinh năm 1983; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã Đ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 09/12; Bố: Lê Quang H, sinh năm 1954; Mẹ: Lý Thị H, sinh năm 1960; Gia đình có 02 anh em; bị cáo là thứ nhất; Vợ: Vũ Thị H, sinh năm 1984; Có 02 con, lớn sinh năm 2006; nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2005/HS-ST ngày 20/6/2005 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 10/8/2005 và được xóa án tích.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang và có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Chị Lương Thị N, sinh năm 1989 (Có mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Chị Vũ Thị H, sinh năm 1984 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang 2.Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1981(Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang * Người làm chứng:

1. Anh Đỗ Văn K, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang

2. Anh Hoàng Văn B, sinh năm 1982 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L, xã S, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Quang H, sinh năm 1983, trú tại Thôn Đ, xã Đ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang có vợ Vũ Thị H, sinh năm 1984 và hai con chung. H có quan hệ tình cảm với chị Lương Thị N, sinh năm 1989, trú tại Tổ dân phố B, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang là công nhân công ty Hồng Hải ở khu công nghiệp Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. H nghi ngờ chị N có quan hệ tình cảm với người khác nên hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau.

Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 25/10/2022, Lê Quang H điều khiển xe ô tô BKS 29A-X đến đón chị N đưa đi làm tại công ty Hồng Hải. Trên đường đi, chị N đề nghị với H về việc chấm dứt quan hệ tình cảm nH H không đồng ý và đe dọa nếu chị N chấm dứt quan hệ tình cảm thì H sẽ giết chết cả nhà chị N và H sẽ cùng chết. Sau khi đưa chị N đến công ty làm việc, H lái xe ra về. Khi đi đến đường Võ Nguyên Giáp thuộc địa phận xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, H sử dụng điện thoại di động tải trên mạng Internet hình ảnh một quả mìn rồi sử dụng tài khoản Zalo “Lê Quang H” gửi vào tài khoản Zalo của chị N, kèm theo các tin nhắn có nội dung sẽ sử dụng quả mìn đe dọa giết chị N với mục đích để chị N tiếp tục quan hệ tình cảm nhưng không thấy chị N trả lời. H gọi điện Zalo nhưng chị N vẫn không nghe máy. Sau khi về đến nhà, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 98B1-X đi đến nhà anh Lôi Văn H, sinh năm 1989, trú tại thôn T, xã H, huyện Yên Thế để uống rượu. Theo H khai trên đường đi đến cầu Nông Trường thuộc thôn T, xã Đ, huyện Yên Thế thì H gặp một người đàn ông không quen biết làm nghề đánh cá, do trước đó H đã có lần đi kích cá và thấy người đàn ông này sử dụng mìn tự chế đánh cá. H hỏi mua của người đàn ông này 01 quả mìn tự chế thì người đàn ông này đồng ý và bán cho H một quả mìn tự chế với giá 100.000 đồng. H cất giấu quả mìn vào trong cốp xe mô tô và đi đến nhà anh Hội uống rượu. Sau đó, H tiếp tục đi ăn uống với một số người khác đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì đi về nhà ngủ. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, H thức dậy gọi điện thoại cho chị N và nói: “Tao yêu thương mày bao nhiêu mày có biết không, mày bỏ tao rồi”. Lúc này, bà Lê Thị H, sinh năm 1965, trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện Yên Thế là cô ruột của H đang ngồi gần H có nói vào qua điện thoại: “Tao bảo mày lấy cháu tao mày có lấy không” thì chị N trả lời không. H đe dọa chị N: “Thôi được rồi con chó này, tối nay tao sẽ cho mày biết”.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, H gọi điện thoại cho chị N bảo sẽ đến đón nhưng chị N không đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 98B1-X (trong cốp xe để quả mìn tự chế đã mua trước đó) đi từ nhà mục đích đến công ty Hồng Hải để đón chị N. Khi H đi đến đường Võ Nguyên Giáp thuộc địa phận thôn Liêm Xuyên, xã Song Khê, thành phố Bắc Giang thì tự ngã xe và bị thương nên được người dân đưa vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang cấp cứu. Do H bị thương tích nhẹ nên đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì H được người thân đến đón đưa về nhà. Đối với chiếc xe máy của H được người dân dựng lên vỉa hè trước nhà anh Hoàng Văn B, sinh năm 1982 ở thôn L, xã S, thành phố Bắc Giang. Sau đó, anh B dắt xe máy vào trong nhà mục đích để giữ hộ.

Chị Lương Thị N sau khi nhận được điện thoại và tin nhắn của H do lo sợ sẽ bị H giết nên đã gọi điện thoại cho anh Đỗ Văn K, sinh năm 1989, trú tại Tổ dân phố C, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (là bạn của chị N) nhờ đến công ty Hồng Hải đón đưa về nhà. Anh K đi xe ô tô đón chị N đưa đến Công an thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên trình báo về việc bị H đe dọa giết. Công an thị trấn Nhã Nam kiểm tra điện thoại của chị N phát hiện nhiều tin nhắn zalo có nội dung H gửi hình ảnh quả mìn kèm theo lời nhắn đe dọa giết chị N.

Khoảng 01 giờ ngày 26/10/2022, anh Đỗ Văn K gọi điện thoại cho H hẹn gặp ở ngã tư Nhã Nam nói chuyện nhưng H không đồng ý. H điều khiển xe ô tô đi đến thị trấn Nhã Nam để xe ở ngoài đường rồi đi vào vườn nhà chị N thì bị chị N phát hiện báo Công an thị trấn Nhã Nam. Công an thị trấn Nhã Nam đến đưa H về trụ sở làm việc. H đã khai nhận hành vi tàng trữ vật liệu nổ là 01 quả mìn tự chế và de dọa giết chị N. Công an thị trấn Nhã Nam tạm giữ của Lê Quang H: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, lắp sim số 097859X0; chiếc xe ô tô, biển số 29A - X. Tiến hành kiểm tra điện thoại của H phát hiện nhiều thông tin về cuộc gọi, tin nhắn trong mục zalo thể hiện hành vi đe dọa giết chị N.

Ngày 26/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Yên khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Quang H không thu giữ đồ vật, tài sản gì; khám xét chiếc xe ô tô biển số 29A-X thu giữ 01 con dao bằng kim loại và 02 chiếc biển số 29B-X. Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Yên chuyển tài liệu liên quan đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang giải quyết theo thẩm quyền. H xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Ngày 26/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang sau khi nhận được tin báo về vụ tai nạn giao thông đã khám nghiệm hiện trường và thu giữ chiếc xe máy biển số 98B1-X, kiểm tra bên trong cốp xe có một vật hình khối cầu có đặc điểm bên ngoài bọc ni long màu trắng, trên đỉnh có hình trụ tròn cao 02cm, đầu đã bị nhiệt hóa, đã cứng, xung quanh trụ và lớp ni lông bên ngoài được quấn bởi các dây cao su màu đen, tại thân có dây cháy chậm cắm vào bên trong khối cầu, phần nhô ra bên ngoài dài 1,8cm. Cơ quan điều tra đã niêm phong vật hình khối cầu để giám định.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang đã trưng cầu giám định vật hình khối cầu có đặc điểm (bên ngoài bọc ni long màu trắng, trên đỉnh có hình trụ tròn cao 02cm, đầu đã bị nhiệt hóa, đã cứng, xung quanh trụ và lớp ni lông bên ngoài được quấn bởi các dây cao su màu đen, tại thân có dây cháy chậm cắm vào bên trong khối cầu, phần nhô ra bên ngoài dài 1,8cm) đã thu giữ.

Kết luận giám định số 7292/KL-KTHS ngày 27/10/2022 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

- Mẫu vật gửi giám định là vật nổ tự chế hoàn chỉnh gồm: Thuốc nổ công nghiệp Amônít có khối lượng 200g (Hai trăm gam), 01 kíp nổ đốt vỏ nhôm (đã bị hỏng) và 01 đoạn dây cháy chậm dài 03cm (ba cen ti mét).

- Vật tự chế trên không thuộc vũ khí quân dụng và không gây nổ được vì kíp nổ bị đã bị hỏng.

Cơ quan điều tra đã cho H xem ảnh vật hình khối cầu đã thu giữ. Kết quả H xác định là hình ảnh quả mìn tự chế mà H đã mua và cất giấu trong cốp xe mô tô biển số 98B1-X mục đích để đe dọa giết chị N.

Tại bản cáo trạng số 31/CT - VKS ngày 30/01/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Lê Quang H ra trước Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang để xét xử bị cáo về tội “Đe dọa giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Lê Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 29A- X và chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98B1-X được mua bằng nguồn tiền chính của chị Vũ Thị H là vợ bị cáo, bị cáo chỉ là người đi mua hộ. Nay bị cáo được đề nghị trả lại các tài sản trên cho vợ bị cáo. Đối với chiếc điện thoại Iphone 8Plus là điện thoại bị cáo dùng để gửi hình ảnh quả mìn cũng như nhắn tin đe dọa chị N còn con dao chỉ dùng để gọt hoa quả, không có giá trị sử dụng nên bị cáo đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Chị Vũ Thị H trình bầy: Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 29A- X và chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98B1-X là chị nhờ bị cáo H đứng ra giao dịch còn nguồn tiềm chính để mua là của chị. Ô tô bị cáo H sử dụng chở khách còn xe mô tô chị đi lại hàng ngày. Nay chị đề nghị được xin lại các tài sản trên và giấy tờ xe mô tô chị đã giao nộp.

Bị hại chị Lương Thị N xác định việc bị cáo H đe dọa giết chị có làm chị bị ảnh hưởng tinh thần tuy nhiên chị không yêu cầu bị cáo H bồi thường gì. Chị đề nghị Hội đồng xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật đối với bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt được Hội đồng xét xử công bố lời khai. Bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 133; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Quang H từ 6 đến 9 tháng tù về tội “Đe dọa giết người”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Quang H từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Lê Quang H phải chấp hành hình phạt chung từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm 3 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 26/10/2022.

Do bị cáo đang bị tạm giam nên không cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Lương Thị N không yêu cầu bị cáo H bồi thường gì nên về trách nhiệm dân sự không xem xét.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc biển số 29B-X và 01 con dao bằng kim loại.

+Trả lại cho chị Vũ Thị H: 01 chiếc xe ô tô biển số 29A -X; 01 chiếc xe mô tô biển số 98B1-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, biển số 98B1-X.

+Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus được niêm phong trong một túi nilon.

+Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang 01 vật hình khối cầu có đặc điểm bên ngoài bọc ni lông màu trắng, trên đỉnh có hình trụ tròn cao 02cm, đầu đã bị nhiệt hóa, đã cứng, xung quanh trụ và lớp ni lông bên ngoài được quấn bởi các dây cao su màu đen, tại thân có dây cháy chậm cắm vào bên trong khối cầu, phần nhô ra bên ngoài dài 1,8cm được niêm phong trong 01 thùng cát tông để xử lý theo quy định.

Ngoài ra, cần áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Về việc xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh P) và những người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, việc vắng mặt họ không ảnh hưởng tới kết quả xét xử do họ đã có lời khai trong hồ sơ. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292; Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự để xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng là có căn cứ.

[3] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình gây ra. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Lê Quang H có gia đình nhưng vẫn quan hệ tình cảm với chị Lương Thị N là công nhân công ty Hồng Hải ở khu công nghiệp Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ngày 25/10/2022, chị N đề nghị chấm dứt quan hệ tình cảm nhưng H không đồng ý và đe dọa sẽ giết chị N. H sử dụng điện thoại di động tải trên mạng Internet hình ảnh một quả mìn rồi gửi cho chị N hình ảnh quả mìn kèm theo các tin nhắn có nội dung đe dọa giết chị N nếu chị N chấm dứt quan hệ tình cảm. Thực hiện ý định trên, H mua 01 quả mìn tự chế chứa thuốc nổ công nghiệp Amônít có khối lượng 200g kèm theo kíp nổ và dây cháy chậm rồi cho vào cốp xe máy BKS 98B1-X. Sau đó, H điều khiển xe đem theo quả mìn mục đích để đe dọa giết chị N nhưng khi đi đến địa phận xã Song Khê, thành phố Bắc Giang thì H bị ngã xe và bị thương nên đã bị Công an thành phố Bắc Giang phát hiện, thu giữ vật chứng.

[4] Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Quang H đã cấu thành tội “Đe dọa giết người” và “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”. Bị cáo đã sử dụng điện thoại di động tải hình ảnh một quả mìn rồi gửi hình ảnh quả mìn kèm theo tin nhắn có nội dung đe dọa giết chị N khiến chị N lo sợ trình báo công an. Ngoài ra, bị cáo còn mua 01 quả mìn tự chế rồi cho vào cốp xe máy, mục đích đe dọa giết chị N nhưng do bị cáo bị tai nạn nên đã bị Công an thành phố Bắc Giang phát hiện, thu giữ. Do vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang truy tố bị cáo về tội “Đe dọa giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, làm ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2005 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thế xử phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

[9] Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, điều luật đã viện dẫn. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo H là người có nhân thân xấu. Chỉ vì bị từ chối tình cảm mà bị cáo đã có hành vi nhắn tin đe dọa cũng như mua mìn tự chế cất trong cốp xe mục đích đe dọa giết chị N. Do vậy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

Do đó, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Do bị cáo đang bị tạm giam nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo và cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo công tác thi hành án.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lương Thị N không yêu cầu bị cáo bồi thường nên về trách nhiệm dân sự không xem xét trong vụ án này.

[11] Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc biển số 29B-X và 01 con dao bằng kim loại do không còn giá trị sử dụng.

+Trả lại cho chị Vũ Thị H: 01 chiếc xe ô tô biển số 29A -X; 01 chiếc xe mô tô biển số 98B1-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, biển số 98B1-X là tài sản của chị Hà.

+Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus được niêm phong trong một túi nilon là công cụ phạm tội.

+Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang 01 vật hình khối cầu có đặc điểm bên ngoài bọc ni lông màu trắng, trên đỉnh có hình trụ tròn cao 02cm, đầu đã bị nhiệt hóa, đã cứng, xung quanh trụ và lớp ni lông bên ngoài được quấn bởi các dây cao su màu đen, tại thân có dây cháy chậm cắm vào bên trong khối cầu, phần nhô ra bên ngoài dài 1,8cm được niêm phong trong 01 thùng cát tông để xử lý theo quy định.

[12] Ngoài ra cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136; các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự để buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 133; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Quang H 6 tháng tù về tội “Đe dọa giết người”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Quang H 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Lê Quang H phải chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 26/10/2022.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc biển số 29B-X và 01 con dao bằng kim loại.

+Trả lại cho chị Vũ Thị H: 01 chiếc xe ô tô biển số 29A -X; 01 chiếc xe mô tô biển số 98B1-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, biển số 98B1-X.

+Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus được niêm phong trong một túi nilon.

+Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Giang 01 vật hình khối cầu có đặc điểm bên ngoài bọc ni lông màu trắng, trên đỉnh có hình trụ tròn cao 02cm, đầu đã bị nhiệt hóa, đã cứng, xung quanh trụ và lớp ni lông bên ngoài được quấn bởi các dây cao su màu đen, tại thân có dây cháy chậm cắm vào bên trong khối cầu, phần nhô ra bên ngoài dài 1,8cm được niêm phong trong 01 thùng cát tông để xử lý theo quy định.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, buộc bị cáo H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đe dọa giết người số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về