Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 06/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 06/2022/HS-PT NGÀY 11/01/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 188/2021/TLST-HS ngày 01/11/2021 đối với bị cáo Bùi Ngọc Q cùng đồng phạm; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2021/HS-ST ngày 20/9/2021 của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

* Bị cáo kháng cáo.

1. Bùi Ngọc Q, sinh năm: 1996, tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H và bà Trần Thị M; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. Trần Thanh P, sinh năm: 1984, tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn BT, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Ph và bà Lưu Thị Ng; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Kim X– Văn Phòng Luật sư Nhân Tín, Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

3. Lê Văn D, sinh năm: 1973, tại: Quảng Ngãi; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn BT, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê L và bà Nguyễn Thị Nh (cả hai đều đã chết); vợ Nguyễn Thị Thu H; bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000 nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 91/2006/HSPT ngày 21/7/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm bản án số 56/2006/HSST ngày 10/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Kim X– Văn Phòng Luật sư Nhân Tín, Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

4. Phạm Khánh H, sinh năm: 1991, tại: Lâm Đồng, nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn TT, xã ĐĐ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình Hội và bà Lê Kim Tuyến; vợ Phạm Thị Thảo (đã ly hôn), bị cáo có 01 người con, sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: tại bản án số 141/2010/HSPT ngày 20/10/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm bản án số 194/2010/HSST ngày 17/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thuận An tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo 05 năm 06 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”; tại bản án số 15/2011/HSST ngày 28/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quán, tỉnh Bình Phước xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội: “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Tổng hợp hình phạt còn lại của bản án số 141/2010/HSPT ngày 20/10/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thành hình phạt chung là 5 năm 10 tháng 8 ngày tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

5. Trần Minh K, sinh năm: 1971, tại: Bình Định; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn LS, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nh và bà Huỳnh Thị L (cả hai đều đã chết); vợ Đặng Thị Kim Ph; bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 15/8/2011 bị cáo bị công an huyện Lâm Hà xử phạt 1.500.000đ về hành vi đánh bạc; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Luật sư bào chưa cho bị cáo: Luật sư Đặng Thị Thu Ng – Văn phòng luật sư Nhân Vũ; Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

6. Trần Thị Th, sinh năm: 1971, tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Phạm Thị H; chồng Bùi Văn U (đã chết); bị cáo có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Kim X– Văn Phòng Luật sư Nhân Tín, Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

7. Phạm Văn M, sinh năm: 1977, tại: Quảng Ngãi; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quang Th và bà Nguyễn Thị L; vợ Đặng Thị Phú H; bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự:

Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Thị D – Văn phòng Luật sư Thuỳ Diện; Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

8. Tô Mạnh T, sinh năm: 1974, tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn NS, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hóa: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn Tiết và bà Nguyễn Thị Thu (cả hai đều đã chết); vợ Nguyễn Thị Quế, bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

9. Phạm Thị Kim Ph, sinh năm: 1989, tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu Tr và bà Lò Thị Kim T (cả hai đều đã chết); chồng Đặng Quang C (đã ly hôn); bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo khác nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Toà án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 22/03/2021, Công an huyện Lâm Hà bắt quả tang 16 đối tượng đang đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa thắng thua bằng tiền tại Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, bao gồm các đối tượng sau:

1. Bùi Văn H, sinh năm: 1955, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

2. Trần Thị Th, sinh năm: 1971, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

3. Phạm Thị Kim Ph, sinh năm: 1989, HKTT: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

4. Nguyễn Thị L, sinh năm: 1978, HKTT: Thôn 1, xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

5. Trần Minh K, sinh năm: 1971, HKTT: Thôn LS, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

6. Lê Văn D, sinh năm: 1973, HKTT: Thôn BT, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

7. Nguyễn Nhật Q, sinh năm: 1992, HKTT: Thôn QB, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

8. Trần Thanh P, sinh năm: 1984, HKTT: Thôn BT, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

9. Phạm Văn M, sinh năm: 1977, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

10. Phạm Khánh H, sinh năm: 1991, HKTT: Thôn TT, xã ĐĐ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

11. Bùi Ngọc Q, sinh năm: 1996, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

12. Trần Qúy M, sinh năm: 1963, HKTT: TDP TL 4, TT NB, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

13. Trần Thị L, sinh năm: 1965, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

14. Hoàng Thị Kim L, sinh năm: 1975, HKTT: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

15. Tô Mạnh T, sinh năm: 1974, HKTT: Thôn NS, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

16. Bùi Thị Ngọc Th, sinh năm: 1982, HKTT: Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 22/3/2021, Bùi Ngọc Q, Trần Thị Th, Nguyễn Thị L, Trần Minh K, Lê Văn D, Nguyễn Nhật Q, Trần Thanh P, Phạm Khánh H, Hoàng Thị Kim L và Phạm Thị Kim Ph có đi dự đám cưới tại Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Sau đó những người trên cùng rủ nhau về nhà Bùi Ngọc Q thuộc Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để đánh bạc thì mọi người đồng ý tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa thắng thua bằng tiền. Khi về đến nhà thì Bùi Ngọc Q chuẩn bị đĩa xứ, bát nhựa, trải chiếu tại phòng bếp rồi lấy bài tú lơ khơ đưa cho Trần Thanh P cắt quân vị và Quang là người xóc đĩa chung tiền cho các con bạc. Đánh bạc được một lúc thì có thêm Phạm Văn M và Tô Mạnh T đến cùng tham gia đánh bạc. Qúa trình đánh bạc Bùi Văn H, Trần Qúy M, Trần Thị L, Bùi Thị Ngọc Th ngồi xem mọi người đánh bạc được một lúc thì bị Công an huyện Lâm Hà bắt quả tang.

Cách thức chơi đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa và mức độ sát phạt như sau: Các đối tượng lấy 04 quân vị tròn được cắt từ lá bài tú lơ khơ, quân vị có 02 mặt, 01 mặt trắng và 01 mặt đen. Khi chơi bỏ 04 quân vị vào 01 đĩa và úp 01 cái bát vào, người cầm cái sẽ xóc, quy định bên phải người xóc là chẵn, bên trái là lẻ, nếu 02 mặt trắng, 02 mặt đen là chẵn; 03 mặt trắng, 01 mặt đen hoặc 03 mặt đen, 01 mặt trắng là lẻ. Mức sát phạt các bị cáo quy định thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất là 2.000.000 đồng.

Khi tham gia đánh bạc Bùi Ngọc Q mang theo số tiền 5.230.000 đồng và sử dụng số tiền 2.230.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn lại số tiền 3.000.000 đồng bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo vứt tất cả số tiền trước mặt và số tiền không sử dụng vào mục đích đánh bạc để trong người vào chiếu bạc nên bị cáo không biết thắng thua như thế nào.

Khi tham gia đánh bạc Trần Thị Th mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 500.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng số tiền này vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo thua hết số tiền 400.000 đồng, còn lại số tiền 1.100.000 đồng bị cáo vứt tất cả vào chiếu bạc.

Khi tham gia đánh bạc Phạm Thị Kim Ph mang theo số tiền 1.000.000 đồng và sử dụng số tiền 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 500.000 đồng bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo vứt tất cả vào chiếu bạc nên không biết thắng thua như thế nào.

Khi tham gia đánh bạc Nguyễn Thị L mang theo số tiền 840.000 đồng và sử dụng số tiền 440.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 400.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo không thắng cũng không thua.

Khi tham gia đánh bạc Trần Minh K mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo vứt tất cả số tiền vào chiếu bạc nên bị cáo không biết thắng thua như thế nào.

Khi tham gia đánh bạc Lê Văn D mang theo số tiền 2.000.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 1.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo không rõ thắng thua như thế nào nhưng bị cáo để lại toàn bộ số tiền đánh bạc tại chiếu bạc. Khi bỏ chạy bị cáo làm rơi số tiền 750.000 đồng dưới chiếu bạc, còn lại 250.000 đồng trong người bị Công an tạm giữ.

Khi tham gia đánh bạc Trần Thanh P là người lấy kéo cắt quân vị, khi đánh bạc Phong mang theo số tiền 2.000.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 1.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo thua hết số tiền trên. Khi bị bắt quả tang bị cáo đã vứt số tiền 1.000.000 đồng không sử dụng vào mục đích đánh bạc vào chiếu bạc.

Khi tham gia đánh bạc Phạm Văn M mang theo số tiền 5.750.000 đồng và sử dụng số tiền 750.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 5.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo thua mất số tiền 200.000 đồng, còn lại 550.000 đồng bị cáo cất vào trong người. Khi bị bắt quả tang bị cáo bị Công an tạm giữ số tiền 5.550.000 đồng.

Khi tham gia đánh bạc Phạm Khánh H mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 500.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo đã vứt tất cả số tiền đang đánh bạc và số tiền không sử dụng vào mục đích đánh bạc vào chiếu bạc, còn lại 20.000 đồng để trong người.

Khi tham gia đánh bạc Hoàng Thị Kim L mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 1.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo vứt tất cả số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc và không sử dụng vào mục đích đánh bạc vào chiếu bạc nên bị cáo không biết thắng thua như thế nào.

Khi tham gia đánh bạc Tô Mạnh T mang theo số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 1.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo thua mất 500.000 đồng. Trong lúc bỏ chạy bị cáo vứt số tiền 930.000 đồng mà bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc vào chiếu bạc, còn 70.000 đồng bị cáo để trong người và bị Công an thu giữ.

Khi tham gia đánh bạc Nguyễn Nhật Q mang theo số tiền 2.000.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, còn 1.000.000 đồng bị cáo cất trong người, không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Qúa trình tham gia đánh bạc đến khi bị Công an bắt quả tang bị cáo vứt tất cả số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc vào chiếu bạc nên bị cáo không biết thắng thua như thế nào.

Vật chứng thu giữ:

- Thu tại chiếu bạc: Số tiền 18.150.000 đồng; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 chén nhựa màu trắng; 04 quân vị hình tròn màu Trắng – Xanh; 01 chiếu nhựa màu xanh; (BL: 08 - 09).

- Tạm giữ trên người các đối tượng:

Tạm giữ trên người Trần Qúy M số tiền 1.300.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen.

Tạm giữ trên người Phạm Khánh H số tiền 20.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI 5 Plus màu vàng.

Tạm giữ trên người Phạm Văn M số tiền 5.550.000đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V2026 màu xanh.

Tạm giữ trên người Nguyễn Nhật Q số tiền 1.300.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50S, màu trắng.

Tạm giữ trên người Trần Minh K số tiền 140.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen.

Tạm giữ trên người Lê Văn D số tiền 250.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu bạc.

Tạm giữ trên người Tô Mạnh T số tiền 70.000 đồng.

Tạm giữ trên người Nguyễn Thị L số tiền 840.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A20, màu xanh.

Tạm giữ trên người Bùi Thị Ngọc Th số tiền 40.000 đồng. Tạm giữ trên người Bùi Văn H số tiền 60.000 đồng.

Tạm giữ trên người Hoàng Thị Loan 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A15 , màu đen.

Tạm giữ tại sân nhà Bùi Ngọc Q:

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen trắng, biển kiểm soát 49D1- 423.42, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển kiểm soát 39F4- 5407, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đỏ trắng, biển kiểm soát 49D1- 505.71, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1-505.03, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, màu đỏ đen, biển kiểm soát 49G1- 528.77, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1-544.49, không kiểm tra chất lượng bên trong.

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1-303.44, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 đĩa sứ màu trắng; 01 chén nhựa màu trắng; 04 quân vị hình tròn màu Trắng - Xanh; 01 chiếu nhựa màu xanh; là tang vật của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 10.920.000 đồng là tang vật của vụ án nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và số tiền 1.300.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Trần Qúy M không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Qúy M (BL: 475).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 5, màu vàng và số tiền 500.000 đồng. Quá trình điều tra xác định số tài sản trên Phạm Khánh H không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phạm Khánh H (BL: 481).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVo V2026, màu xanh và số tiền 5.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Phạm Văn M không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phạm Văn M (BL: 488).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung A50S, màu trắng và số tiền 1.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Nguyễn Nhật Q không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Nguyễn Nhật Q (BL:

475c).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen và số tiền 500.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Trần Minh K không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Minh K (BL: 485).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu bạc và số tiền 1.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Lê Văn D không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Lê Văn D (BL: 476).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Glaxy A20, màu xanh và số tiền 400.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Nguyễn Thị L không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Nguyễn Thị L (BL: 489).

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A15, màu đen và số tiền 1.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Hoàng Thị Kim L không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Hoàng Thị Kim L.

Đối với số tiền 1.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Tô Mạnh T không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Tô Mạnh T (BL: 482).

Đối với số tiền 40.000 đồng tạm giữ trên người Bùi Thị Ngọc Th và số tiền 60.000 đồng tạm giữ trên người Bùi Văn H. Qúa trình điều tra xác định Bùi Thị Ngọc Th và Bùi Văn H không tham gia đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Bùi Thị Ngọc Th và Bùi Văn H : (BL:478, 479).

Đối với số tiền 500.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Trần Thị Th không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Thị Th (BL: 487).

Đối với số tiền 500.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Phạm Thị Kim Ph không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phạm Thị Kim Ph (BL: 486).

Đối với số tiền 3.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Bùi Ngọc Q không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Bùi Ngọc Q (BL:484).

Đối với số tiền 1.000.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định số tài sản trên Trần Thanh P không sử dụng vào mục đích đánh bạc. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Thanh P (BL: 483).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đỏ trắng, biển kiểm soát 49D1-505.71, chủ sở hữu hợp pháp là chị Lâm Thị Thu Uyên, Sinh năm: 1997, HKTT: xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chiếc xe trên Uyên đã cho Lâm Hồng Sơn, Sinh năm: 2000, HKTT: Thôn Liên Hòa, xã Phi Tô, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để Sơn cùng gia đình sử dụng làm phương tiện đi lại. Ngày 22/3/2021, Lâm Hồng Sơn cho Nguyễn Nhật Q mượn xe để đi lại. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà xác định chiếc xe mô tô trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Lâm Hồng Sơn (BL: 477).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, biển kiểm soát 39F4-5407, chủ sở hữu hợp pháp là chị Trần Thị Nha Trang, HKTT: Khu phố 1, xã Bình Ba, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Qúa trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên do bà Trần Thị Nha Trang đã giao cho chồng là ông Phạm Đình Hoàng, Sinh năm: 1989, HKTT: Thôn TT, xã ĐĐ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 22/3/2021, Phạm Đình Hoàng cho em trai là Phạm Khánh H mượn xe để đi lại. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà xác định chiếc xe mô tô trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phạm Đình Hoàng (BL: 480).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1- 505.03, chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Quang Khải, Sinh năm: 1999, HKTT: Thôn LS, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 22/3/2021, Trần Quang Khải đã cho bố là ông Trần Minh K mượn xe để đi lại. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà xác định chiếc xe mô tô trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Quang Khải (BL: 475b).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1- 303.44, chủ sở hữu hợp pháp là anh Đặng Đình Huy, HKTT: TDP Đa Huynh, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Qúa trình điều tra xác định Huy đã bán xe cho cửa hàng Thắng Lợi 1. Ngày 20/10/2020, Phạm Văn M đã mua lại chiếc xe trên để đi lại. Nhận thấy, chiếc xe trên có nguồn gốc rõ ràng, không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phạm Văn M (BL:488).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 49D1- 544.49, chủ sở hữu hợp pháp là anh Phan Thanh Hải Đăng, Sinh năm: 1995, HKTT: thôn Prteing 1, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 22/3/2021, Phan Thanh Hải Đăng đã cho mẹ là bà Trần Thị L mượn xe để đi đến nhà ông Bùi Văn H chơi. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà xác định bà Trần Thị L không tham gia đánh bạc, chiếc xe trên có nguồn gốc rõ ràng. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Phan Thanh Hải Đăng(BL: 475a).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, màu đỏ đen, biển kiểm soát 49G1- 528.77, chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Khanh, Sinh năm: 1987, HKTT: thôn QB, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 22/3/2021, ông Trần Khanh đến nhà ông Bùi Văn H gửi xe rồi đi nhậu cách nhà ông Hiền khoảng 500 mét. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà xác định chiếc xe mô tô trên không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 21/6/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại số tài sản trên cho Trần Khanh (BL:

490).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Hon da Wave, màu đen trắng, biển kiểm soát 49D1-423.42, do Tô Mạnh T đi đến nhà ông Bùi Văn H vào ngày 22/3/2021. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà chưa xác định được nguồn gốc chiếc xe mô tô trên, đề nghị giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà tiếp xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 80/CT - VKS ngày 20/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Bùi Ngọc Q về tội: “Tổ chức đánh bạc” và tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; các bị cáo Trần Thị Th, Phạm Thị Kim Ph, Nguyễn Thị L, Trần Minh K, Lê Văn D, Trần Thanh P, Phạm Văn M, Phạm Khánh H, Hoàng Thị Kim L, Tô Mạnh T và Nguyễn Nhật Q về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 97/2021/HS-St ngày 20/9/2021 của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà đã xử;

Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc Q phạm tội: “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Các bị cáo Trần Thanh P, Lê Văn D, Phạm Khánh H, Trần Minh K, Nguyễn Nhật Q, Trần Thị Th, Phạm Thị Kim Ph, Phạm Văn M, Tô Mạnh T, Hoàng Thị Kim L, Nguyễn Thị L phạm tội: “Đánh bạc.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1 Điều 51;

Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Ngọc Q 12 (Mười hai) tháng tù về tội: “Tổ chức đánh bạc” và 09 (chín) tháng tù về tội: “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả 02 tội là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh P, Trần Minh K mỗi bị cáo 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Nhật Q 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn D, Phạm Khánh H mỗi bị cáo 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38;Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Th, Phạm Văn M, Phạm Thị Kim Ph, Tô Mạnh T mỗi bị cáo 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị Kim L, Nguyễn Thị L mỗi bị cáo 5 tháng 29 ngày tù (Bằng thời gian đã tạm giam).

Căn cứ khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên trả tự do cho bị cáo Hoàng Thị Kim L, bị cáo Nguyễn Thị L ngay tại phiên Tòa.

Ngày 24/9/2021 các bị cáo Phạm Văn M; Bùi Ngọc Q; Trần Minh K; Tô Mạnh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 27/9/2021 bị cáo Phạm Khánh H kháng cáo xin phạt cải tạo không giam giữ.

Ngày 27/9/2021 các bị cáo Lê Văn D; Trần Thanh P; Trần Thị Th kháng cáo xin hưởng án treo.

Ngày 30/9/2021 bị cáo Phạm Thị Kim Ph kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo, các bị cáo Phạm Văn M; Bùi Ngọc Q; Trần Minh K; Tô Mạnh T thay đổi nội dung kháng cáo xin hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Ngọc Q, Lê Văn D, Phạm Khánh H, Trần Minh K; giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh P, Trần Thị Th, Phạm Văn M, Tô Mạnh T, Phạm Thị Kim Ph; áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định pháp luật.

Luật sư Lê Kim Xbào chữa cho các bị cáo Trần Thanh P, Lê Văn D và Trần Thị Th đề nghị: Bị cáo Dũng phạm tội nhưng đã xoá án tích nên đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, và xem xét áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo, để các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội để chăm lo gia đình.

Luật sư Diện bào chữa cho bị cáo Mân đề nghị: Mẹ bị cáo Mân có thành tích cống hiến, được Nhà nước tặng thưởng Huân nên đề nghị áp dụng thêm điểm x khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự để bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

Luật sư Nga bào chữa cho bị cáo Ký đề nghị: Bị cáo Ký có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo là lao động chính trong gia đình hiện phải nuôi 03 con ăn học, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ để bị cáo lao động ở ngoài chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 22/03/2021, Công an huyện Lâm Hà bắt quả tang 16 đối tượng đang đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa thắng thua bằng tiền tại nhà của Bùi Ngọc Q tại Thôn P, xã PS, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, bao gồm các đối tượng sau: Bùi Ngọc Q, Trần Thị Th, Nguyễn Thị L, Trần Minh K, Lê Văn D, Nguyễn Nhật Q, Trần Thanh P, Phạm Khánh H, Hoàng Thị Kim L và Phạm Thị Kim Ph; Phạm Văn M và Tô Mạnh T cùng tham gia đánh bạc. Quá trình điều tra đã xác định Bùi Ngọc Q là người chuẩn bị đĩa xứ, bát nhựa, trải chiếu tại phòng bếp rồi lấy bài tú lơ khơ đưa cho Trần Thanh P cắt quân vị và Quang là người xóc đĩa chung tiền cho các con bạc; tổng số tiền các bị cáo đánh bạc Cơ quan Công an chứng minh được là 10.920.000đ.

Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc Q phạm tội: “Tổ chức đánh bạc” và tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo Trần Thị Th, Phạm Thị Kim Ph, Nguyễn Thị L, Trần Minh K, Lê Văn D, Trần Thanh P, Phạm Văn M, Phạm Khánh H, Hoàng Thị Kim L, Tô Mạnh T và Nguyễn Nhật Q về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn M; Bùi Ngọc Q; Trần Minh K; Tô Mạnh T; Phạm Khánh H; Lê Văn D; Trần Thanh P; Trần Thị Th; Phạm Thị Kim Ph: Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong thời hạn và đúng quy định nên được xem xét.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, các bị cáo nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật. Các bị cáo Lê Văn D, Phạm Khánh H, Trần Minh K đều có nhân thân xấu, cụ thể: Vào năm 2006 bị cáo Lê Văn D bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 01 năm tù về tội:

Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Vào năm 2010 bị cáo Phạm Khánh H bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo 05 năm 06 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”; năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Hớn Quán, tỉnh Bình Phước xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trốn khỏi nơi giam giữ”; vào năm 2011 bị cáo Trần Minh K bị Công an huyện Lâm Hà xử phạt 1.500.000đ về hành vi đánh bạc nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện, nay lại tiếp tục phạm tội; các bị cáo Phạm Văn M; Bùi Ngọc Q; Tô Mạnh T; Trần Thanh P; Trần Thị Th; Phạm Thị Kim Ph tuy nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nhưng cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, phân hoá vai trò và số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc để xử phạt các bị cáo với mức án như trên là thoả đáng; mức hình phạt là tương xứng với hành vi phạm tội, đủ để răn đe giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo Mân xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới là mẹ bị cáo có Huân chương kháng chiến nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, việc Luật sư Diện đề nghị áp dụng điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là không đúng; các bị cáo khác không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới; hiện nay tại huyện Lâm Hà số lượng các vụ án đánh bạc có chiều hướng gia tăng, trong vụ án này có các bị cáo Hoàng Thị Kim L, Nguyễn Thị L cũng phạm tội cùng tính chất, mức độ như các bị cáo nhưng bị xét xử tù giam, việc các bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ sẽ không đảm bảo tính công bằng và không đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[3] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Ngọc Q; Phạm Văn M; Trần Minh K; Tô Mạnh T; Phạm Khánh H; Lê Văn D; Trần Thanh P; Trần Thị Th; Phạm Thị Kim Ph; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc Q phạm tội: “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Các bị cáo Phạm Văn M; Trần Minh K; Tô Mạnh T; Phạm Khánh H; Lê Văn D; Trần Thanh P; Trần Thị Th; Phạm Thị Kim Ph phạm tội: “Đánh bạc.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Ngọc Q.

Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Q 12 (Mười hai) tháng tù về tội: “Tổ chức đánh bạc” và 09 (chín) tháng tù về tội: “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả 02 tội là 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38;

Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Trần Thanh P, Trần Minh K.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh P 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Trần Minh K 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38;

Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lê Văn D, Phạm Khánh H.

Xử phạt bị cáo Lê Văn D 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Phạm Khánh H 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38;

Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Trần Thị Th, Phạm Thị Kim Ph, Tô Mạnh T.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Th 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Kim Ph 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Tô Mạnh T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Văn M.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn M 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021 đến ngày 19/4/2021 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Bùi Ngọc Q; Phạm Văn M; Trần Minh K; Tô Mạnh T; Phạm Khánh H; Lê Văn D; Trần Thanh P; Trần Thị Th; Phạm Thị Kim Ph, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 06/2022/HS-PT

Số hiệu:06/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về