TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 98/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Hôm nay, ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 94/2021/HSST, ngày 02 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1966, tại tỉnh Phú Thọ. HKTT: Khu 2, xã ST, huyện T, tỉnh Phú Thọ.
Nơi tạm trú: Thôn T, xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước.
Số chứng minh nhân dân: 131232X; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Bích N (đã chết) và Nguyễn Thị H; vợ Nguyễn Thị Ng (đã ly thân) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 1994; có 03 con chung với bà Hoàng Thị Th, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2007. Tiền án: Không. Tiền sự: 01. Ngày 26/8/2020, bị Công an huyện B xử phạt vi phạm Hành chính 1.500.000 đồng về Hành vi đánh bạc, đã nộp vào ngày 28/5/2021.
Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 20 tháng 8 năm 2021 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Võ Văn PH, sinh năm 1985. (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước.
+ Anh Đào Văn H1, sinh năm 1979. (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 5, xã ĐM, huyện B, tỉnh Bình Phước.
+ Bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1964. (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn ĐX, xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước.
- Người làm chứng:
+ Bà Trần Thị H2, sinh năm 1976. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 5, xã ĐM, huyện B, tỉnh Bình Phước.
+ Ông Hứa Văn H3, sinh năm 1969. (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn TN, xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/5/2021, Công an xã ĐM kiểm tra tại quán cà phê “Lan Anh” của bà Trần Thị H2 thuộc thôn 5, xã ĐM, huyện B phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị Th1, Đào Văn H1 và Võ Văn PH đang đánh bài “phỏm” thắng thua bằng tiền. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 1.520.000 đồng, 1 bộ bài tây 52 lá đã sử dụng, 01 cái chăn (mền); thu giữ trên người Nguyễn Văn Đ 1.000.000 đồng, Võ Văn PH 3.250.000 đồng và Đào Văn H1 180.000 đồng.
Hình thức chơi Phỏm, như sau: Người chơi dùng 01 bộ bài tây, loại 52 lá chia đều cho 04 người chơi, mỗi người 09 lá, riêng người chia bài và đánh trước thì được 10 lá. Phần bài dư chưa chia hết được gọi bài “Nọc” đặt ở giữa. Người có 10 lá bài sẽ đánh 01 lá bài đầu tiên theo hướng từ trái sang phải, hoặc phải sang trái. Người tiếp theo sẽ ăn lá bài đó nếu nó hợp với các lá bài đang có tạo thành “Phỏm” và úp “Phỏm” này xuống, nếu không ăn thì sẽ phải bốc 1 lá bài trong bài “Nọc”. Những người chơi ăn bài hoặc bốc bài sẽ phải đánh ra 1 lá bài, cứ đánh như vậy cho đến hết vòng. Ván bài sẽ kết thúc khi trong bàn có 1 người chơi “Ù”. Nếu trong bàn không có ai “Ù”, sau khi bốc hết bài “Nọc” ván bài sẽ kết thúc. Khi đánh lượt cuối, người chơi phải hạ tất cả các “Phỏm” mình đang có, sau đó mới đánh lá bài cuối cùng. Các quân bài còn lại là “Bài rác” sẽ được giữ lại cộng tính điểm khi kết thúc ván bài. Ai ít điểm nhất sẽ là người thắng cuộc gọi là “Nhất” được ăn hết, người ít điểm kế tiếp là thua “Nhì”, tiếp theo là thua “Ba”, sau cùng là thua “Bét”. Số điểm của mỗi lá bài tương ứng số trên lá bài, riêng các lá A, J, Q, K sẽ được tính điểm lần lượt là 1, 11, 12, 13. Trong trường hợp điểm số bằng nhau, người hạ bài trước sẽ thắng. Người chơi hết ván mà không có “Phỏm” nào gọi là bị “Cháy” không được tính điểm. Các thuật ngữ được sử dụng trong khi đánh bài “Phỏm”, như sau: “Phỏm” là bộ gồm 3 lá bài trở lên có cùng chất và số liên tiếp nhau (7♣, 8♣, 9♣... hoặc 8♥, 9♥,10♥...) hoặc bộ 3 lá bài khác chất nhưng cùng số (7♣,7♥, 7♦..). “Bài rác” là những lá bài lẻ không thuộc “Phỏm”. “Ù” là khi tất cả 9 lá bài đều thuộc “Phỏm” và không có bài rác. “Ăn chốt” là ăn lá bài người chơi trước ở lượt đánh cuối. “Đền” là trả toàn bộ tiền thua trong ván cho người thắng nếu bị ăn 3 lá bài liên tục. Người chơi quy ước chơi mỗi ván thắng thua, như sau: “Nhất” ăn hết, thua “Nhì” 10.000đ, thua “Ba” 20.000đ, thua “Bét” 30.000đ, “Cháy” thua 40.000đ, “Ù” mỗi người thua 500.000đ, người nào bị “Ăn chốt” thua 40.000đ và “Đền” thua 150.000đ.
Quá trình điều tra, truy tố xác định được khi vào chơi Nguyễn Văn Đ mang theo 1.720.000 đồng, sử dụng 720.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt, thua 110.000 đồng. Võ Văn PH mang theo 3.750.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt thắng được 90.000 đồng. Nguyễn Thị Th1 sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt thắng được 20.000 đồng; Đào Văn H1 mang theo 280.000 đồng, sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt hoà vốn. Tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 1.520.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 92/CTr –VKS ngày 29/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm Tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị tuyên bố bị cáo phạm Tội đánh bạc; về hình phạt đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321 điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Về hình phạt bổ sung không áp dụng do có hoàn cảnh khó khăn và hiện nay tình hình dịch bệnh; về vật chứng vụ án đề nghị tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 1.520.000đ, tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá và 01 chăn; về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến về tội danh vật chứng vụ án đã bị thu giữ, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vẫn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến về tội danh và vật chứng vụ án bị thu giữ.
Lời nói sau cùng, bị cáo hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để chăm lo cuộc sống gia đình, do hoàn cảnh gia đình khó khăn,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia phiên tòa, vắng mặt không có lý do; quá trình giải quyết đã có lời khai, không có yêu cầu gì, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến các vẫn đề khác của vụ án nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi phạm tội và xác định tội danh đối với bị cáo:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/5/2021, Nguyễn Văn Đ cùng với Nguyễn Thị Th1, Đào Văn H1, Võ Văn PH có hành vi đánh bạc hình thức “phỏm” thằng thua bằng tiền, tổng cộng số tiền dùng để đánh bạc là 1.520.000 đồng.
Hội đồng xét xử thấy: Tổng số tiền dùng để đánh bạc 1.520.000 đồng chưa đủ mức định lượng tối thiểu 5.000.000 đồng để truy tố về Tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, tại thời điểm thực hiện hành vi bị cáo Nguyễn Văn Đ đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, chưa hết thời gian được coi là không bị xử phạt hành chính nên đã đủ yếu tố cấu thành Tội đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
Đối với Nguyễn Thị Th1, Đào Văn H1 và Võ Văn PH tham gia đánh bạc nhưng bản thân chưa có tiền án, tiền sự về Tội đánh bạc hoặc Tội tổ chức đánh bạc quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự nên không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý hành chính là đúng quy định.
Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng do ham muốn thắng thua bằng tiền nên cố ý thực hiện. hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội và còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.
Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo và tình tiết giảm nhẹ các bị cáo được hưởng. Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội. Tuy nhiên cũng cần xem xét cách tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình.
Xét bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú ổn định nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục là phù hợp.
[6] Về vật chứng vụ án: Số tiền 1.520.000 đồng là tiền sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước; 52 lá bài tây là vật dùng vào việc phạm tội; 01 chăn có hoa văn kích thước 1,2 x 1.5m2 sử dụng cho việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với số tiền thu trên người bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định không dùng vào việc phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo pH3 chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm Tội đánh bạc.
Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) năm cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Nguyễn Văn Đ về Ủy ban nhân dân xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã ĐN, huyện B, tỉnh Bình Phước nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
2. Về biện pháp tư pháp:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 1.520.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009889 ngày 26/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Phước và Giấy nộp tiền ngày 26/10/2021 của của Ngân Hàng NN&PTNT Việt Nam – Chi nhánh huyện B).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội đánh bạc số 98/2021/HS-ST
Số hiệu: | 98/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về