Bản án về tội đánh bạc số 96/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 96/2023/HS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2023/HSST ngày 22 tháng 5 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1977 Nơi cư trú: Số nhà 04, ngõ C; đường CKV , tổ dân phố C; phường TX, thành phố B, tỉnh B.

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 6/12. Con ông Phan Nhật X – Sinh năm: 1934 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1941 (đã chết). Vợ: Vương Thị Tr, sinh năm 1983. Bị cáo có 4 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2019.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội Đánh bạc.

Tiền sự: Không. Nhân thân: Không.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2023. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1959 (Vắng mặt)

2. Bà Đỗ Thị H (tên gọi khác Đỗ Thị L), sinh năm: 1961 (vắng mặt) Cùng cư trú: Số nhà 62, đường C, phường TNH, thành phố B, tỉnh B.

3. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962. Địa chỉ: Tổ dân phố Đ, phường XG, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt)

4. Anh Dương Văn X, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn T, xã Tân Tiến, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt)

5. Ông Đỗ Xuân Tr, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số nhà 4, ngõ 46, đường TNT, phường TNH, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt)

6. Ông Đoàn Văn D, sinh năm: 1970. Địa chỉ: Số nhà 64, đường C, phường TNH, thành phố B, tỉnh B Vắng mặt).

7. Ông Nguyễn Như Th, sinh năm: 1965. Địa chỉ: Số nhà 86, đường C, phường TNH, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt).

8. Bà Vi Thị Ng, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Tổ HV1, phường TX, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt).

9. Bà Vương Thị Trâm, sinh năm: 1983. Địa chỉ: Số nhà 04, ngõ 162, đường C, tổ dân phố Cung Nhượng, phường TX, thành phố B, tỉnh B (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 26/02/2023, vợ chồng Nguyễn Văn C, sinh năm 1959, Đỗ Thị H, sinh năm 1961 (tên gọi khác là Đỗ Thị L) trú tại số nhà 62, đường C, phường TNH, thành phố B đang ở nhà thì có Nguyễn Văn H, sinh năm 1962 trú tại tổ dân phố Đ, phường Xương Giang, thành phố B và Dương Văn X, sinh năm 1986 trú tại thôn TC, xã Tân Tiến, thành phố B; Đỗ Xuân Tr, sinh năm 1965 trú tại số nhà 04, ngõ 46, đường TNT, phường TNH, thành phố B đi xe máy đến nhà Công chơi. Sau đó C, H, X, Tr rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm. Bốn người sử dụng bộ bài tú lơ khơ có 52 quân bài do C chuẩn bị từ trước để đánh bạc; mọi người thỏa thuận người về thứ nhì, ba, tư sẽ phải trả cho người về nhất lần lượt là 20.000 đồng, 40.000 đồng và 60.000 đồng, nếu không có phỏm thì trả cho người nhất 80.000 đồng; trường hợp có người ù thì mỗi người còn lại sẽ phải trả 100.000 đồng; người ù sẽ trích lại 20.000 đồng trả tiền hồ cho C.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Đoàn Văn D, sinh năm 1970 trú tại số nhà 64, đường C, phường TNH, thành phố B đi bộ đến nhà C. Do Đỗ Xuân Tr không đánh nữa và ra về nên D vào ngồi thay vị trí của Tr và tham gia đánh bạc. Một lúc sau, Nguyễn Như Th, sinh năm 1965 trú tại số nhà 85, đường C, phường TNH, thành phố B; Nguyễn Văn N, sinh năm 1977 trú tại tổ dân phố CN1, phường TX, thành phố B; Vi Thị Ng, sinh năm 1984 trú tại Tổ HV1, phường TX, thành phố B đi đến nhà C. H đi ra mở cổng cho mọi người vào trong nhà. H gọi điện cho Vũ Quốc V, sinh năm 1xxx trú tại tổ dân phố H, phường TX, thành phố B và Đỗ Xuân Tr rủ đến đánh bạc. Tr đi xe máy đến nhà C. Sau đó, Th, N, Tr, Ng ngồi đánh bạc dưới hình thức đánh phỏm; mức sát phạt như chiếu bạc mà C đang chơi. H quy định nếu người nào ù thì trích lại 20.000 đồng tiền hồ. Một lúc sau, Vũ Quốc V đi xe máy đến. Khi thấy V đến, Ng đứng dậy nhường chỗ cho V vào ngồi đánh bạc với mọi người. Ng đưa cho N 500.000 đồng để chung tiền đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì bị Công an thành phố B kiểm tra hành chính, lập biên bản và tạm giữ vật chứng, tài sản cụ thể như sau.

* Tại chiếu bạc thứ nhất gồm Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn H, Dương Văn X, Đoàn Văn D:

- Thu giữ trên chiếu bạc: số tiền 1.190.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài; 01 chiếu nilon màu đỏ, 01 chăn nỉ màu đỏ.

- Thu của Nguyễn Văn H: 01 điện thoại di động Iphone 6s, màu xám lắp sim số 0988.962.XXX; số tiền 240.000 đồng ở túi quần bên phải; số tiền 1.710.000 đồng trong túi áo khoác; 01 xe mô tô BKS 98B2 – xxxxx kèm theo đăng ký xe.

- Thu của Đoàn Văn D: 01 chiếc ví da bên trong có số tiền 10.907.000 đồng;

01 điện thoại iPhone 5s lắp sim số 0393.164.xxx.

- Thu của Dương Văn X: 01 chiếc điện thoại Nokia, lắp sim số 0384.899.xxx và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 98B1 – xxxxx.

- Thu của Nguyễn Văn C: Số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại Nokia 230 lắp sim số 0975.183.xxx.

* Tại chiếu bạc thứ hai gồm Đỗ Xuân Tr, Vũ Quốc V. Khi lực lượng Công an đến thì Nguyễn Như Th, Nguyễn Văn N chạy lên tầng trên và trốn thoát ra bên ngoài.

- Thu giữ trên chiếu bạc: số tiền 1.200.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài; 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS Max; 01 chiếc điện thoại di động Samsung; 01 chiếu nilon, 01 chăn nỉ màu đỏ.

- Thu của Đỗ Xuân Tr: số tiền 320.000 đồng ở túi áo bên trái; số tiền 1.600.000 đồng ở túi quần phía sau bên trái; 01 chiếc điện thoại Vsmart lắp sim số 0942.790.xxx và 0328.725,xxx và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu ENGEL BKS 98H4 – xxxx.

- Thu của Vũ Quốc V: Số tiền 3.xxx.000 đồng bên trong túi áo; 01 chiếc điện thoại iPhone 7 Plus lắp sim số 0377.441.xxx và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream, BKS 98F7 - xxxxx.

Ngoài ra, thu 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 99F1 - 068.15 của Nguyễn Văn N; Thu của Đỗ Thị H: 01 chiếc điện thoại iPhone 6s lắp sim số 0796.501.xxx; số tiền 13.498.000 đồng.

Ngày 07/3/2023, Cơ quan CSĐT Công an thành phố B triệu tập Nguyễn Văn N đến làm việc thì N đầu thú và khai nhận hành vi đánh bạc.

Kết quả điều tra xác định lượng tiền đánh bạc của 2 chiếc bạc như sau:

* Chiếu bạc thứ nhất: Nguyễn Văn C khai có 800.000 đồng, sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc, còn 500.000 đồng thu trên người không sử dụng đánh bạc. Nguyễn Văn H khai có 2.130.000 đồng, bỏ ra 420.000 đồng đánh bạc, còn 1.710.000 đồng để trong túi áo khoác không sử dụng đánh bạc. Khi bị kiểm tra có 240.000 đồng trong túi quần dùng để đánh bạc, bị thua 180.000 đồng. Dương Văn X khai có 400.000 đồng sử dụng để đánh bạc, khi bị kiểm tra đang thua hết. Đoàn Văn D khai có 11.457.000 đồng, bỏ ra 550.000 đồng đánh bạc, còn 10.907.000 đồng trong ví không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền đánh bạc là: 1.430.000 đồng.

* Chiếu bạc thứ 2: Đỗ Xuân Tr khai có 2.000.000 đồng, bỏ ra 400.000 đồng đánh bạc, còn 1.600.000 đồng ở túi quần phía sau bên trái không dùng đánh bạc, khi bị kiểm tra đang thua 80.000 đồng, còn 320.000 đồng sử dụng đánh bạc thu giữ trong túi áo bên trái. Vũ Quốc V khai có 4.155.000 đồng trong đó 3.xxx.000 đồng để túi áo ngực trái không sử dụng đánh bạc, bỏ ra 200.000 đồng ở túi quần để đánh bạc, khi bị kiểm tra trước mặt là 320.000 đồng, đang thắng bạc 120.000 đồng. Nguyễn Như Th khai sử dụng 400.000 đồng đánh bạc, khi bị kiểm tra, đang hòa, tiền để trên chiếu. Nguyễn Văn N khai có 160.000 đồng và được Nga đưa cho 500.000 đồng đánh bạc. Tổng số tiền sử dụng đánh bạc 660.000 đồng, khi bị kiểm tra, đang thua 180.000 đồng, tại vị trí ngồi thu 480.000 đồng. Vi Thị Ng khai bỏ ra số tiền 100.000 đồng đánh bạc bị thua hết sau đó đưa cho N 500.000 đồng góp chung đánh bạc. Tổng số tiền đánh bạc là: 1.520.000 đồng.

Đối với vợ chồng Đỗ Thị H, Nguyễn Văn C là chủ nhà, có hành vi tổ chức đánh bạc, trong đó C trực tiếp tham gia đánh bạc, chưa có tiền án, tiền sự; H bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 05 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” từ năm 2009, đến nay đã được xóa án tích. Do tổng số tiền đánh bạc ngày 15/3/2023 của 2 chiếu bạc là 2.950.000 đồng chưa đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên Công an thành phố B có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H và C.

Đối với các đối tượng tham gia đánh bạc gồm: Vi Thị Ng ngày 28/4/2009 đã bị Công an thành phố B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Đoàn Văn D ngày 05/11/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 tháng 16 ngày tù về tội “Đánh bạc” đã chấp hành xong toàn bộ bản án và được xoá án tích. Dương Văn X, ngày 13/01/2021 bị Công an thành phố B xử phạt vi phạm hành chính hành vi đánh bạc, đã nộp tiền phạt ngày 29/01/2021. Đỗ Xuân Tr, Nguyễn Như Th, Vũ Quốc V, Nguyễn Văn H đều không có tiền án, tiền sự. Các đối tượng trên có hành vi đánh bạc, nhưng số tiền đánh bạc xác định được chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” nên Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng này.

Đối với Nguyễn Văn N, tham gia đánh bạc ngày 26/02/2023, tuy nhiên tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 đã bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “đánh bạc”, thời gian thử thách 05 năm. Do vậy, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự , khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn N về hành vi đánh bạc. Bản cáo trạng số 97/CT-VKS ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên đã phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định bị cáo Nguyễn Văn N đã phạm tội “đánh bạc” như nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 điều 321, Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Khoản 5 điều 65; điều 56; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo N từ 06 (sáu) tháng đến 09(chín) tháng tù về tội “đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/3/2023. Bị cáo được trừ những ngày tạm giữ từ ngày 12/8/2021 đến ngày 17/8/2021 theo bản án số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B vào thời gian thụ hình.

Về vật chứng đề nghị: Áp dụng điểm a, b khoản 1 điều 47; Điểm a, b khoản 2 điều 106 BLTTHS. Đề nghị:

Tịch thu sung công: Số tiền 2.390.000 đồng thu trên hai chiếu bạc; số tiền 240.000 đồng thu của Nguyễn Văn H sử dụng đánh bạc; số tiền 320.000 đồng thu của Đỗ Xuân Tr sử dụng đánh bạc; 01 chiếc điện thoại Nokia 230 màu đen, IMEI 1: 357730108860132, IMEI 2: 357730109860131, lắp sim số 0975183xxx đã qua sử dụng thu của Nguyễn Văn C; 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng, IMEI xxx262078919924 lắp sim số 0796501xxx thu của Đỗ Thị H đều sử dụng liện lạc gọi một số đối tượng đến tham gia đánh bạc.

Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ 52 quân bài; 02 chiếu nilon; 01 chăn nỉ màu đỏ.

Trả lại cho bị cáo N: 01 điện thoại Iphone Xmax màu trắng, số IMEI 3572760957200871, số IMEI 2 357276095673930, lắp sim số 0976638xxx, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra kiểm sát viên đề nghị về án phí hình sự, quyền kháng cáo của bị cáo, người liên quan.

Tại phiên tòa, Bị cáo N đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, nhận thức thấy hành vi của mình là sai, Viện kiểm sát truy tố về tội danh, điều luật như trên là đúng. Bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Chị Vương Thị Tr xác nhận xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, biển số 99F1- 068.15 của chị, chị đã được cơ quan điều tra trả lại tài sản, chị không có ý kiến, yêu cầu gì. Không tranh luận gì.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. HĐXX đánh giá các hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên xét thấy những người trên đã được cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B lấy lời khai, tại phiên tòa không ai có ý kiến gì về sự vắng mặt của những người trên, do đó HĐXX căn cứ điều 292 BLTTHS xét xử vụ án theo quy định.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn N tại phiên tòa đã thừa nhận về hành vi đánh bạc cùng các đối tượng khác tại nhà Nguyễn Văn C đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người đã tham gia đánh bạc cùng bị cáo, phù hợp với biên bản kiểm tra hành chính lập vào hồi 16 giờ ngày 26/02/2023, các vật chứng đã thu giữ. Từ kết quả điều tra, tài liệu, chứng cứ thu thập được đã được thẩm tra tại phiên tòa, có căn cứ xác định: Bị cáo Nguyễn Văn N về hành vi đánh bạc, chưa được xóa án tích, khoảng 15 giờ chiều ngày 26/02/2023, N đến nhà Nguyễn Văn C ở số nhà 62, đường C, phường TNH, thành phố B và đã tham gia đánh bạc cùng các đối tượng Đỗ Xuân Tr, Nguyễn Như Th, Vũ Quốc V bằng hình thức sử dụng bộ bài Tú lơ khơ 52 quân đánh phỏm, ăn tiền. Bị cáo cùng các đối tượng trên đánh bạc đến 16 giờ cùng ngày thì bị công an kiểm tra hành chính, bắt giữ. Tổng số tiền N và các đối tượng đã bỏ ra đánh bạc là 1.520.000 đồng, trong đó N bỏ ra 660.000 đồng để tham gia đánh bạc.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng được nhà nước bảo vệ. Với hành vi đã thực hiện như trên của bị cáo đã phạm tội “đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 BLHS. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo theo điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án về tội đánh bạc.

Về tính tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và đã đầu thú nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 BLHS.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX cân nhắc áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi, song cũng giảm nhẹ một phần khi lượng hình để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo, kiểm sát viên đã đề xuất tại phiên tòa là phù hợp nên được HĐXX chấp nhận.

Xét tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2022/HST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B đã xử phạt bị cáo N 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Khi đang chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo, bị cáo tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật, do đó HĐXX căn cứ khoản 5 điều 65, điều 55; khoản 2 điều 56 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 và tổng hợp với hình phạt của bản án này để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[5].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hành vi đánh bạc để hưởng lợi bất chính, do đó ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền để sung công quỹ nhà nước. Tuy nhiên, xét gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có xác nhận của địa phương, nên HĐXX áp dụng khoản 2, khoản 3 điều 35 của BLHS, giảm một phần hình phạt bổ sung, phạt dưới mức quy định của khoản 3 điều 321 BLHS, cụ thể bằng 5.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

[6].Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền bị cáo N và các đối tượng sử dụng đánh bạc ngày 26/0/2023 tại nhà Nguyễn Văn C đã bị thu giữ gồm: Số tiền 2.390.000 đồng thu trên hai chiếu bạc; số tiền 240.000 đồng của Nguyễn Văn H sử dụng đánh bạc; số tiền 320.000 đồng của Đỗ Xuân Tr sử dụng đánh bạc cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại Nokia 230 màu đen, IMEI 1: 357730108860132, IMEI 2: 357730109860131, lắp sim số 0975183xxx đã qua sử dụng thu của Nguyễn Văn C; 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng, IMEI xxx262078919924 lắp sim số 0796501xxx thu của Đỗ Thị H là công cụ, dụng cụ để C và H gọi điện cho các đối tượng khác đến tham gia đánh bạc, do đó tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với các cộng cụ, dụng cụ gồm: 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài; 02 chiếu nilon; 01 chăn nỉ màu đỏ đều không có giá trị, tịch thu tiêu hủy:

Đối với 01 điện thoại Iphone Xmax màu trắng, số IMEI 3572760957200871, số IMEI 2 357276095673930, lắp sim số 0976638xxx của Nguyễn Văn N, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên HĐXX quyết định trả lại cho N nhưng tạm giữ tài sản trên để đảm bảo thi hành án.

Đối với các vật chứng, tài sản không liên quan đến hành vi đánh bạc đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B xử lý trả lại trong quá trình tiến hành tố tụng, HĐXX thấy phù hợp với quy định của pháp luật, không đặt ra xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 98B1-xxxxx cơ quan điều tra thu của Dương Văn X, quá trình điều tra xác định tài sản trên không liên quan đến hành vi đánh bạc, tuy nhiên xe mô tô trên có chung đăng ký, biển số xe với xe mô tô Wave RSX của ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973 ở tổ dân phố Giáp Sau, phường Dĩnh Kế, thành phố B nên cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh, xử lý, do đó HĐXX không đặt ra xem xét.

[7]. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Các đối tượng gồm Nguyễn Văn H, Dương Văn X, Đoàn Văn D, Đỗ Xuân Tr, Vũ Quốc V, Nguyễn Như Th, Vi Thị Ng quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định có hành vi đánh bạc, tuy nhiên do tổng số tiền đánh bạc không đủ định lượng để xem xét, truy cứu về trách nhiệm hình sự nên Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Đối với Nguyễn Văn C, Đỗ Thị H là chủ nhà cho các đối tượng khác đánh bạc tại nhà, có thu tiền nhưng tổng số tiền đánh bạc không đủ định lượng để xem xét về tội đánh bạc, hay tội tổ chức đánh bạc, gá bạc, do đó Công an thành phố B đã đề nghị Chủ tịch UBND thành phố ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi trên. HĐXX xét thấy là phù hợp, đúng quy định.

[8].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 3, điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[9]. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10]. Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày xét xử để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về điều luật áp dụng:

- Căn cứ khoản 2 điều 106; điều 135, điều 136, điều 333, điều 336, điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 3, điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Căn cứ khoản 1, khoản 3 điều 321; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38; Khoản 2 khoản 3 điều 35; Khoản 5 điều 65; Điều 55; khoản 2 điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung.

2. Về tội danh, mức hình phạt:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bẩy) tháng tù về tội “đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/3/2023. Bị cáo được trừ những ngày tạm giữ (từ ngày 12/8/2021 đến ngày 17/8/2021) theo bản án số 38/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B vào thời gian thụ hình.

+ Phạt bổ sung bị cáo N số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung công quỹ nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công: Số tiền 2.390.000 đồng thu trên hai chiếu bạc; số tiền 240.000 đồng thu của Nguyễn Văn H; số tiền 320.000 đồng thu của Đỗ Xuân Tr;

01 chiếc điện thoại Nokia 230 màu đen, IMEI 1: 357730108860132, IMEI 2: 357730109860131, lắp sim số 0975183xxx đã qua sử dụng của Nguyễn Văn C; 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng, IMEI xxx262078919924 lắp sim số 0796501xxx đã qua sử dụng của Đỗ Thị H.

Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài; 02 chiếu nilon; 01 chăn nỉ màu đỏ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn N 01 điện thoại Iphone Xmax màu trắng, số IMEI 1: 3572760957200871, số IMEI 2: 357276095673930, lắp sim số 0976638xxx nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 96/2023/HS-ST

Số hiệu:96/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về