Bản án về tội đánh bạc số 93/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 93/2021/HS-PT NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/TLPT-HS ngày 09/7/2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 31/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1980 tại tỉnh Bình Thuận; nơi ĐKHKTT và cư trú: thôn K’Rái 1, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: không; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; con ông Nguyễn C (đã chết) và Trương Thị H (đã chết); chồng: không, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt.

- Người bào chữa: Luật sư Đỗ Vi V – Văn phòng luật sư Đỗ Vi Văn Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ, ngày 09/6/2019, Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra tại căn nhà Số 14 thôn Sao M, xã K, huyện Đ thì phát hiện một số đối tượng tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh xì lát thắng thua nhau bằng tiền, các đối tượng đã nghỉ đánh bạc trước khi công an kiểm tra nên không thu được tiền tang trên chiếu bạc. Các đối tượng Nguyễn Thị Tuyết M, Nguyễn Thị Kim M1, Hoàng Thị L, Hà Thị T và Nguyễn Thị Hạnh N khai nhận có tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh xì lát mỗi ván từ 10.000đ đến 20.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của các đối tượng là 1.700.000đ.

Qua kiểm tra điện thoại của Nguyễn Thị Tuyết M, Cơ quan điều tra phát hiện trong điện thoại của M có các tin nhắn ghi số đề rồi chuyển đến điện thoại của Vòng Thị Lệ Đ ở thôn Nghĩa Hiệp 1, xã Ka Đô, huyện Đ và Lê Thị Th ở tổ dân phố Nghĩa Lập 1, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đ. Cụ thể:

Vào các ngày 20, 21, 22 và 23 tháng 5 năm 2019, Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng điện thoại di động số sim 0975.424.239 ghi các con số đề rồi gửi tin nhắn qua điện thoại di động số sim 0917.437.168 của Lê Thị Th, số tiền mà M đánh bạc với Th thể hiện như sau:

Ngày 20/5/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số gửi cho Lê Thị Th để đánh đề các đài (Huế, Phú Yên, Hà Nội) với tổng số tiền mua số lô, đề là 4.370.000đ, số tiền M trúng số lô, đề là 11.200.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 20/5/2019 của M với Th là 15.570.000đ.

Ngày 21/5/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số gửi cho Lê Thị Th để đánh đề các đài (Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Ninh) với tổng số tiền mua số lô, đề là 9.710.000đ, số tiền bà M trúng số lô, đề là 5.600.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 21/5/2019 của M với Th là 15.310.000đ.

Ngày 22/5/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số gửi cho Lê Thị Th để đánh đề các đài (Sóc Trăng, Đồng Nai, Cần Thơ, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bắc Ninh) với tổng số tiền mua số lô, đề là 9.050.000đ; số tiền M trúng số lô, đề là 2.800.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 22/5/2019 của M với Th là 11.850.000đ.

Ngày 23/5/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các con số gửi cho Lê Thị Th để đánh đề các đài (Bình Định, Quảng Trị, Quảng Bình, Tây Ninh, Bình Thuận, Hà Nội) với tổng số tiền mua số lô, đề là 6.800.000đ; số tiền M trúng số lô, đề là 800.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 23/5/2019 của M với Th là 7.600.000đ.

Như vậy tổng số tiền mà M với Th sử dụng vào việc đánh bạc vào các ngày 20, 21, 22, 23 tháng 5 năm 2019 là 50.330.000đ.

Ngoài ra vào các ngày 04, 05, 06, 07, 08 và 09 tháng 6 năm 2019, Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng điện thoại di động số sim 0975.424.239 ghi các con số đề rồi gửi tin nhắn qua điện thoại di động số sim 0989.320.576 của Vòng Thị Lệ Đ cụ thể như sau:

Ngày 04/6/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các con số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề các đài (Quảng Ninh, Vùng Tàu) với tổng số tiền mua số lô, đề là 9.470.000đ; số tiền M trúng số lô, đề là 23.500.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 04/6/2019 của M với Đ là 32.970.000đ.

Ngày 05/6/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề đài Bắc Ninh với tổng số tiền mua số lô, đề là 5.640.000đ; số tiền M trúng số lô, đề là 4.000.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 05/6/2019 của M với Đ là 9.640.000đ.

Ngày 06/6/2019 bà Nguyễn Thị Tuyết M mua các số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề các đài (Hà Nội, Tây Ninh) với tổng số tiền mua số lô, đề là 9.130.000đ; số tiền bà M trúng số lô, đề là 10.800.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 06/6/2019 của M với Đ là 19.930.000đ.

Ngày 07/6/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề các đài (Bình Dương, Trà Vinh, Vĩnh Long) với tổng số tiền mua số lô, đề là 3.210.000đ, kết quả M không trúng số lô, đề. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 07/6/2019 của M với Đ là 3.210.000đ.

Ngày 08/6/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề các đài (Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Long An, Nam Định) với tổng số tiền mua số lô, đề là 18.180.000đ; số tiền M trúng số lô, đề là 3.500.000đ. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 08/6/2019 của M với Đ là 21.680.000đ.

Ngày 09/6/2019 Nguyễn Thị Tuyết M mua các số rồi gửi cho Vòng Thị Lệ Đ để đánh đề đài Nam Định với tổng số tiền mua số lô, đề là 3.100.000đ, kết quả M không trúng số lô, đề. Như vậy tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ngày 09/6/2019 của M với Đ là 3.100.000đ.

Như vậy tổng số tiền mà M với Đ sử dụng vào việc đánh bạc vào các ngày 04, 05, 06, 07, 08, 09 tháng 6 năm 2019 là 90.530.000đ.

Tổng số tiền mà Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng vào việc đánh bạc với Lê Thị Th và Vòng Thị Lệ Đ là 140.860.000đ.

Quá trình điều tra xác định được:

Nguyễn Thị Tuyết M mua các con số, lô đề rồi chuyển bằng tin nhắn điện thoại cho Lê Thị Th, Vòng Thị Lệ Đ. Kết quả thắng thua được xác định dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các tỉnh trong ngày hôm đó và tính tiền thắng thua vào ngày hôm sau.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ:

- Đối với 02 chiếu nhựa màu đỏ, 02 bộ bài Túlơkhơ mà các đối tượng sử dụng để đánh bạc bằng hình thức đánh xì lát thắng thua nhau bằng tiền. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã ra Quyết định tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính vào ngày 08/10/2019 nên không đề cập đến.

- Đối với số tiền thu giữ của Nguyễn Thị Kim M1 100.000đ, của Hà Thị T 600.000đ, của Nguyễn Thị Tuyết M 1.000.000đ. Quá trình điều tra xác định số tiền trên (1.700.000đ) các đối tượng sử dụng để đánh bạc bằng hình thức đánh xì lát. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã ra Quyết định tịch thu số tiền trên để sung ngân sách Nhà nước tại biên lai nộp tiền ngày 11/10/2019 nên không đề cập đến.

- Đối với số tiền 500.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu xanh có gắn số sim 0918.501.635 thu giữ của Nguyễn Quốc T1; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar, màu xanh có gắn số sim 0333.867.798 thu giữ của Phan Thiên V. Quá trình điều tra xác định các tài sản trên không liên quan đến hành vi đánh bạc nên Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản trên cho ông Nguyễn Quốc T1, ông Phan Thiên V. Sau khi nhận lại tài sản ông Nguyễn Quốc T1, ông Phan Thiên V không có yêu cầu, đề nghị gì nên không đề cập đến.

Cáo trạng số 03/KSĐT ngày 26/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, Lê Thị Th, Vòng Thị Lệ Đ về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại bản án số 07/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xử:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, Lê Thị Th, Vòng Thị Lệ Đ phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Th 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Lê Thị Th 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 36; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 24 (hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M cho Ủy ban nhân dân xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 20.000.000đ để sung ngân sách Nhà nước.

Tại bản án số 43/2021/HSPT ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xử: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vòng Thị Lệ Đ và bị cáo Lê Thị Th, sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 36; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Xử phạt bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Vòng Thị Lệ Đ cho Ủy ban nhân dân xã Ka Đô, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Vòng Thị Lệ Đ.

Phạt bổ sung bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

2. Xử phạt bị cáo Lê Thị Th 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lê Thị Th cho Ủy ban nhân dân thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Lê Thị Th.

Phạt bổ sung bị cáo Lê Thị Th 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 22/2021/HS-GĐT ngày 23/3/2021 quyết định: Chấp nhận kháng nghị vủa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HSST ngày 18/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ và Bản án số 43/2020/HSPT ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm lại bản án.

Tại bản án số 20/2021/HSST ngày 31/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xử:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, Lê Thị Th, Vòng Thị Lệ Đ phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 20.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Th 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Lê Thị Th 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Vòng Thị Lệ Đ 15.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo. Ngày 14/6/2021 bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo không thắc mắc khiếu nại bản án sơ thẩm và thay đổi nội dung kháng cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý với đội danh cũng như quan điểm của Viện kiểm sát, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo phạm tội do lạc hậu, học vấn thấp không biết chữ, hiện con nhỏ đang bị bệnh. Bị cáo có hoàn gia đình khó khăn nên đề nghị miễn giảm hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M thay đổi nội dung kháng cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ khoản 1 Điều 342 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Tại phiên tòa bị cáo M khai nhận: Vào các ngày 20, 21, 22 và 23 tháng 5 năm 2019, Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng điện thoại di động số sim 0975.424.239 ghi các con số đề rồi gửi tin nhắn qua điện thoại di động số sim 0917.437.168 của Lê Thị Th, số tiền mà M đánh bạc với Th là 50.330.000đ. Vào các ngày 04, 05, 06, 07, 08 và 09 tháng 6 năm 2019, Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng điện thoại di động số sim 0975.424.239 ghi các con số đề rồi gửi tin nhắn qua điện thoại di động số sim 0989.320.576 của Vòng Thị Lệ Đ, tổng số tiền mà M với Đ sử dụng vào việc đánh bạc là 90.530.000đ.

Tổng số tiền mà Nguyễn Thị Tuyết M sử dụng vào việc đánh bạc với Lê Thị Th và Vòng Thị Lệ Đ là 140.860.000đ.

Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, Lê Thị Th, Vòng Thị Lệ Đ phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M là nguy hiểm cho xã hội, số tiền bị cáo tham gia đánh bạc là lớn 140.860.000đ. Bị cáo là người khởi xướng, đánh bạc nhiều lần với nhiều người, do đó cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo chỉ được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo còn bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là đã xem xét đầy đủ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo xuất trình đơn xin xác nhận hoàn cảnh gia đình, tuy nhiên đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nên không xem xét. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo M, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng là phù hợp.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M 20.000.000đ để sung ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị Tuyết M phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 93/2021/HS-PT

Số hiệu:93/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về