TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TL, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 91/2023/HS-ST NGÀY 05/10/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TL, tỉnh Hà N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 84/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2023/HSST-QĐ ngày 26 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:
- Kiều Tiến L - sinh năm 1974; nơi cư trú: thôn AH, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Kiều Tiến C (đã chết) và bà Lại Thị L; bị cáo chung sống với chị Nguyễn Thị Th (không đăng ký kết hôn) và sinh được 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/5/2023 đến ngày 03/6/2023 chuyển tạm giam, ngày 21/6/2023 được tại ngoại, hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên toà.
- Người làm chứng: ông Phạm Viết T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 01/01/2022, Kiều Tiến L ký hợp đồng làm đại lý bán vé xổ số, thời hạn 24 tháng với Công ty TNHH - MTV X Hà N. Hằng ngày, L bán vé xổ số cho khách ngay tại nhà của mình ở thôn AH, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà N. Đến đầu tháng 01 năm 2023, L bắt đầu bán các số bao lô cho khách để kiếm lời. Các số bao lô này, L tự đối chiếu, trả thưởng cho khách, với cách thức cụ thể: khi có người mua số bao lô gồm các số tự nhiên từ 00 đến 99 với giá 22.500 đồng/1 điểm, L sử dụng bút bi ghi số người chơi đã mua ra 01 tờ vé Xổ số lô tô gọi là “cáp”, ký tên, nhận tiền và đưa cáp này cho khách; đồng thời ghi lại số bao lô đã bán cho khách vào một Bảng kê số dự thưởng lô tô gọi là “bảng” để theo dõi. Đối chiếu với kết quả X Miền Bắc mở thưởng cùng ngày, nếu số bao lô khách mua trùng với 02 số cuối cùng của 27 giải, thì khách trúng thưởng, L phải trả cho khách với tỷ lệ 1 điểm được 80.000 đồng; nếu trùng với nhiều giải khác nhau (không quá 3 giải), thì được nhận tương ứng với những số trùng. Ngược lại, nếu số của khách mua không trùng với số nào, thì L được hưởng toàn bộ số tiền người mua bỏ ra để mua số bao lô. Chiều ngày 25/5/2023, L ngồi bán vé xổ số tại nhà và bán được tổng số tiền 240.000 đồng các số lô tô 02 số cho một người đàn ông không quen biết, cụ thể:
20.000 đồng số “30”, các số “31, 32, 33, 34” mỗi số 40.000 đồng, số “35” 60.000 đồng. Đến 17 giờ 30 phút ngày 25/5/2023, khi L đang ở nhà thì có 02 N thanh niên tự khai là Đỗ Đình M - sinh năm 1990 và Phạm Văn N - sinh năm 1998, đều trú tại thôn Nhất Nh, xã Liêm Cần, huyện TL đến gặp L hỏi mua số bao lô, thì L đồng ý. L bán cho M các số bao lô “39, 93, 01” mỗi số 50 điểm với giá 22.500 đồng/1 điểm, tổng số tiền là 3.375.000 đồng; bán cho N các số bao lô “09, 90, 02, 20” mỗi số 25 điểm, cũng với giá 22.500 đồng/1 điểm, tổng số tiền là 2.250.000 đồng. L viết các số M, N mua ra 02 cáp và tổng hợp ra 01 Bảng kê số dự thưởng lô tô để theo dõi, sau đó đưa cáp cho 02 người này. N đưa trả cho L số tiền 3.400.000 đồng, còn M đưa cho L số tiền 2.300.000 đồng; L trả lại cho N 25.000 đồng, trả lại cho M số tiền 50.000 đồng. Đúng lúc này, lực lượng Công an huyện TL phối hợp với Công an xã TH phát hiện, bắt quả tang.
Vật chứng, đồ vật, tài sản thu giữ, gồm:
- Thu tại vị trí Kiều Tiến L bán số lô: 01 Bảng kê số dự thưởng lô tô; 01 bút bi màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A55; 36 vé Xổ số lô tô Hà N loại 10.000 đồng, chưa điền thông tin; thu trên mặt bàn uống nước số tiền 5.700.000 đồng và thu trên người của L số tiền 623.000 đồng.
- Thu của Phạm Văn N 01 cáp số bao lô bằng vé Xổ số lô tô Hà N và số tiền 25.000 đồng; thu của Đỗ Đình M 01 cáp số bao lô bằng vé Xổ số lô tô Hà N và số tiền 50.000 đồng.
Cùng ngày 25/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) - Công an huyện TL tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Kiều Tiến L tại thôn AH, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà N. Quá trình khám xét thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu xanh và 01 Hợp đồng đại lý bán vé X.
Ngày 27/5/2023, Cơ quan CSĐT - Công an huyện TL tiến hành mở niêm phong và kiểm tra thông tin, tài liệu có liên quan trong 02 chiếc điện thoại đã thu giữ, nhưng không phát hiện nội dung liên quan đến hành vi đánh bạc của Kiều Tiến L.
Do hành vi của Kiều Tiến L bị phát hiện trước giờ có kết quả X Miền Bắc mở thưởng ngày 25/5/2023, nên tổng số tiền Cơ quan điều tra chứng minh L dùng vào việc đánh bạc với hình thức bán số bao lô cho khách trong ngày 25/5/2023 là 5.625.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKS-TA ngày 24/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện TL đã truy tố Kiều Tiến L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TL giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Kiều Tiến L phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 2 và khoản 3 Điều 35, Điều 65 của Bộ luật Hình sự - xử phạt Kiều Tiến L từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng; hình phạt bổ sung: phạt bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng, nộp ngân sách Nhà nước. Về xử lý vật chứng: áp dụng các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự - tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 6.158.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 bút bi và 36 tờ vé Xổ số lô tô Hà N mệnh giá 10.000 đồng, chưa điền thông tin; trả lại cho Kiều Tiến L 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A55 màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu xanh và số tiền 240.000 đồng; lưu trong hồ sơ vụ án 01 Bảng kê số dự thưởng lô tô, 02 cáp ghi số bao lô và 01 Hợp đồng đại lý bán vé X.
- Bị cáo Kiều Tiến L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không trở ngại cho việc giải quyết vụ án; nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiều Tiến L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như trong nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/5/2023, tại nhà ở của Kiều Tiến L ở thôn AH, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà N; Kiều Tiến L đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số bao lô cho 02 N thanh niên (chưa xác định được nhân thân) với tổng số tiền là 5.625.000 đồng, thì bị lực lượng Công an huyện TL phối hợp với Công an xã TH phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của Kiều Tiến L là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đánh bạc trái phép được thua bằng tiền từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. Hội đồng xét xử kết luận: hành vi của Kiều Tiến L đã phạm tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TL truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có bố đẻ được tặng Huy chương kháng chiến và có anh trai là liệt sĩ; nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân tốt và được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy, xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà cho bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022, hợp nhất Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018, Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Hình phạt bổ sung: bị cáo phạm tội nhằm mục đích kiếm L, nên cần áp dụng phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức phạt tiền cho bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 Bảng kê số dự thưởng lô tô, 02 cáp ghi số bao lô và 01 Hợp đồng đại lý bán vé X: đây là tài liệu chứng minh tội phạm, cần tiếp tục lưu trữ trong hồ sơ vụ án.
- Đối với số tiền 5.700.000 đồng thu trên mặt bàn uống nước và số tiền 623.000 đồng thu trên người của Kiều Tiến L: quá trình điều tra xác định, trong đó số tiền 5.625.000 đồng là do L bán số bao lô mà có, số tiền 458.000 đồng L xác định dùng để thanh toán cho khách mua số bao lô; còn số tiền 240.000 đồng có được từ việc bán vé Xổ số lô tô Hà N, L phải nộp về cho Công ty TNHH - MTV X Hà N. Do đó, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền L sử dụng vào việc đánh bạc là 6.083.000 đồng và trả lại cho L số tiền 240.000 đồng.
- Đối với số tiền 25.000 đồng thu của N thanh niên tự khai tên là Phạm Văn N và số tiền 50.000 đồng thu của N thanh niên tự khai tên là Đỗ Đình M: N và M khai, nếu không bị Công an phát hiện, thì N và M sẽ tiếp tục sử dụng hết số tiền này vào việc đánh lô, đề với Kiều Tiến L. Vì vậy, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền này.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A55 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S: đây là tài sản hợp pháp của Kiều Tiến L, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho L.
- Đối với 01 bút bi Kiều Tiến L sử dụng vào việc phạm tội và 36 tờ vé Xổ số lô tô Hà N, loại 10.000 đồng, chưa điền thông tin: hiện không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác:
- Đối với 02 đối tượng mua số bao lô của Kiều Tiến L: trong quá trình lập Biên bản phạm tội quả tang và lời khai ban đầu, 02 đối tượng này tự khai tên là Đỗ Đình M - sinh năm 1990 và Phạm Văn N - sinh năm 1998, đều cư trú tại thôn Nhất Nh, xã Liêm Cần, huyện TL, tỉnh Hà N. Trong quá trình làm việc tại cơ quan Công an, thì cả 02 đối tượng đã L dụng sơ hở bỏ trốn. Cơ quan CSĐT - Công an huyện TL đã thực hiện việc xác minh nhân thân, lý lịch của 02 đối tượng này, nhưng chưa có kết quả; nên tiếp tục xác minh và xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với các đối tượng mua số bao lô của Kiều Tiến L trước ngày 25/5/2023: quá trình điều tra, L xác định không biết tên, tuổi, địa chỉ của những người này và không còn giữ những tài liệu liên quan, không xác định được số tiền L và các đối tượng dùng để đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện TL không có căn cứ để xem xét, xử lý.
[7] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 2 và khoản 3 Điều 35, Điều 65, các điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tuyên bố: bị cáo Kiều Tiến L phạm tội “Đánh bạc”.
- Xử phạt bị cáo Kiều Tiến L 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (05/10/2023);
Giao bị cáo Kiều Tiến L cho Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TL, tỉnh Hà N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Hình phạt bổ sung: phạt bị cáo Kiều Tiến L 5.000.000 đồng, nộp ngân sách Nhà nước.
3. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 6.158.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 bút bi màu xanh bạc, đã qua sử dụng và 36 tờ vé Xổ số lô tô Hà N mệnh giá 10.000 đồng, chưa điền thông tin; trả lại cho Kiều Tiến L 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A55 màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu xanh và số tiền 240.000 đồng (chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TL với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TL; số tiền theo Ủy nhiệm chi số 48 lập ngày 28/8/2023 tại Kho bạc Nhà nước huyện TL).
- Lưu trong hồ sơ vụ án 01 Bảng kê số dự thưởng lô tô, 02 cáp ghi số bao lô và 01 Hợp đồng đại lý bán vé X.
4. Án phí: bị cáo Kiều Tiến L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội đánh bạc số 91/2023/HS-ST
Số hiệu: | 91/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về