TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 87/2024/HS-PT NGÀY 08/05/2024 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 08 tháng 5 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 75/2024/TLPT-HS ngày 05/4/2024 đối với bị cáo Nguyễn Hữu Q, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2024/HS-ST ngày 01/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.
Họ và tên: Nguyễn Hữu Q, sinh ngày 03/4/1968, tại tỉnh Thái Bình. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: 117/3 A, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Xây dựng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Hữu K (đã chết), con bà Nguyễn Thị T. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm: 1979 và có hai con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2009. Tiền án: Không; tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/11/2023 và đến ngày 23/11/2023. Sau đó bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 13 giờ ngày 13/11/2023, Phạm Thị N đi đến nhà Nguyễn Hữu Q để chơi. Tại đây, Q và N cùng rủ nhau đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài phỏm và thỏa thuận: Người nào thua “chót” số tiền 80.000 đồng, thua “cháy” số tiền 100.000 đồng, thua “ù” số tiền 120.000 đồng, lá bài cá ăn 20.000 đồng/1lá, người nào thắng ù thì bỏ ra số tiền 20.000 đồng vào hũ nhựa để trên bàn để làm tiền xâu cho Q hưởng lợi. Q lấy 04 cái ghế nhựa và 01 cái bàn bằng gỗ ở trước sân nhà đặt tại phòng khách, lấy 01 chiếc chăn bằng vải trải trên mặt bàn làm chiếu bạc và lấy 10 bộ bài T1 lơ khơ 52 lá làm công cụ đánh bạc. Khi đánh bạc, Q có số tiền 520.000 đồng (Năm trăm hai mươi ngàn đồng), N mang theo số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng) đều sử dụng hết để đánh bạc. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Lê Thị T2 mang theo số tiền 3.500.000 đi đến nhà của Q cùng tham gia đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với Q và N. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi Q, T2, N đang đánh bạc trái phép thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Tạm giữ trên chiếu bạc đồ vật, tài sản dùng để đánh bạc gồm: Số tiền dùng để đánh bạc là 7.770.000 đồng trong đó: 2.870.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc và 4.900. 000 đồng trong người các con bạc dùng để đánh bạc, 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 lá bài đã sử dụng; 09 bộ bài tú lơ khơ chưa sử dụng, 01 chiếc bàn gỗ, kích thước (54x107x56)cm; 04 chiếc ghế nhựa kích thước giống nhau (45x38x79)cm; 01 chiếc chăn bằng vải; 01 chiếc hũ bằng nhựa, đều đã qua sử dụng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2024/HS-ST ngày 01/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Phạm Thị N, Lê Thị T2 phạm tội:
“Đánh bạc”.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu Q 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/11/2023 đến ngày 23/11/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 14/3/2024, bị cáo Nguyễn Hữu Q làm đơn kháng cáo với nội dung: Xin áp dụng hình phạt tiền, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Q về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét thấy mức hình phạt 09 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm và cho bị cáo được hưởng án treo. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo khai tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 13/11/2023, tại địa chỉ số 117/3 A, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, các bị cáo Nguyễn Hữu Q, Phạm Thị N, Lê Thị T2 đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài Phỏm với tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 7.770.000 đồng, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Q phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Q, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Bởi bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hơn nữa bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có thời gian tham gia quân ngũ và được tặng Kỷ niệm chương bảo vệ biên giới phía Bắc, bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, cần áp dụng một mức án tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nêu trên được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Để giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo để tạo điều kiện cho bị cáo trở thành người lương thiện. Như phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
[1] Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Q. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2024/HS-ST ngày 01/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 4, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu Q 06 (sáu) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Hữu Q cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đ, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
[2] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu Q không phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 87/2024/HS-PT
Số hiệu: | 87/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/05/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về