TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 72/2021/HS-PT NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 29/TLPT-HS ngày 25/02/2021 đối với bị cáo Bùi Văn P và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 183/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Bùi Văn P, sinh năm 1966 tại tỉnh Bình Định; nơi ĐKNKTT: thôn Suối Thông C1, xã Tu Tra, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: tổ 19 thôn Bồng L, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Bùi Đ (đã chết) và bà Lê Thị N (đã chết); vợ Nguyễn Thị B, sinh năm 1964 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
2. Đỗ Thị Hồng C, sinh năm 1950 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: tổ 30 thôn Phú Thạnh, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Đỗ Ngọc K (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1930; chồng Trần Công R, sinh năm 1940 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1976, nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án: Bản án số 54/2018/HSST ngày 04/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 10.000.000đ về tội “Đánh bạc”, bị cáo chấp hành xong ngày 18/03/2020; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
3. Hoàng Văn K, sinh năm 1956 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: số 56 Suối Thông C1, xã Tu Tra, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Hoàng Văn H (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); vợ Lê Thị V, sinh năm 1959 và có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 11/ST ngày 28/12/1982 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp T sản xã hội chủ nghĩa”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 00 phU ngày 04/02/2020, Hà N, Nguyễn Hoàng L đến tại nhà ông Bùi Văn P, bà Nguyễn Thị B (vợ ông P) trú tại tổ 19, Bồng L, H, Đ để chúc tết. Đến khoảng 14 giờ 00 phU cùng ngày Hà N, Nguyễn Hoàng L rủ nhau đánh bài nên Nguyễn Thị B đưa cho Bùi Hữu P 50.000đ để đi mua bài về chơi. Sau đó Phan Tấn T, Đỗ Thị Hồng C đến và T tham gia chơi cùng.
Nguyễn Thị B, Phan Tấn T, Hà N và Nguyễn Hoàng L đánh bạc bằng hình thức xì tố ăn tiền sát phạt lẫn nhau. Các đối tượng đậu chớn mỗi chớn 200.000đ, mức ăn thua từ 20.000đ trở lên, thắng tiền để trên sòng, ai thua hết thì lấy tiền trong người ra ít nhất 200.000đ để đánh ván sau. Hết chớn ai thắng thì xâu 10.000đ đến 20.000đ để trả tiền nước và thuốc lá. Số tiền này để ở dưới chiếu bạc và bị tịch thu cùng tiền tang vật. Tiền tang thu giữ trên sòng bạc là 3.500.000đ. Tiền thu giữ trong người của N và T là 450.000đ. Tổng số tiền mà Phan Tấn T, Hà N, Nguyễn Hoàng L và Nguyễn Thị B đánh bạc đánh bài bằng hình thức xì tố là 3.950.000đ. Tất cả số tiền dùng để đánh bạc và đã bị thu giữ khi bắt quả tang.
Đến khoảng 18 giờ 00 phU cùng ngày thì Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U đến nhà chơi và P rủ nhau đánh bạc nên Bùi Văn P cùng Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U và Đỗ Thị Hồng C đánh bạc bằng hình thức xì tố ăn tiền sát phạt lẫn nhau. Các đối tượng đậu chớn mỗi chớn 200.000đ, mức ăn thua từ 20.000đ trở lên, thắng tiền để trên sòng, ai thua hết thì lấy tiền trong người ra ít nhất 200.000đ để đánh ván sau. Hết chớn ai thắng thì xâu 10.000đ đến 20.000đ để trả tiền nước và thuốc lá. Số tiền này để ở dưới chiếu bạc và bị tịch thu cùng tiền tang vật. Tiền tang thu giữ trên sòng bạc là 1.730.000đ. Tiền thu giữ trong người của P, K, U và C là 9.750.000đ. Tổng số tiền mà Bùi Văn P, Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U và Đỗ Thị Hồng C đánh bạc bằng hình thức xì tố là 11.480.000đ. Tất cả số tiền dùng để đánh bạc và đã bị lực lượng công an thu giữ khi bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ tại sòng gồm: 02 bộ bài tây đã qua sử dụng; 01 chiếu;
tiền tang đánh bạc trên 02 sòng là 5.230.000đ.
Tiền thu trong người các đối tượng: Bùi Văn P: 500.000đ; Hoàng Văn K: 1.500.000đ; Nguyễn Xuân U: 2.350.000đ; Đỗ Thị Hồng C: 5.400.000đ; Phan Tấn T: 200.000đ; Hà N: 250.000đ.
Số tang vật này hiện đang được tạm gửi tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ chờ xử lý.
Bản cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Bùi Văn P về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015, và truy tố các bị cáo Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U, Đỗ Thị Hồng C, Phan Tấn T về tội“Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bản án số 183/2020/HSST ngày 25/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng:
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn P phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn P 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020.
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B số tiền 50.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân U phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân U số tiền 30.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn K, Phan Tấn T phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn K 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020.
Xử phạt bị cáo Phan Tấn T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm o, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị Hồng C phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Hồng C 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020.
Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Buộc bị cáo Bùi Văn P nộp 10.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.
Buộc bị cáo Hoàng Văn K nộp 10.000.000đ để sung quỹ Nhà nước. Buộc bị cáo Phan Tấn T nộp 10.000.000đ để sung quỹ Nhà nước. Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo. Ngày 04/01/2021 bị cáo Hoàng Văn K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 05/01/2021 bị cáo Bùi Văn P kháng cáo xin hưởng án treo.
Ngày 06/01/2021 bị cáo Đỗ Thị Hồng C kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo không thắc mắc khiếu nại bản án sơ thẩm và giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Văn P, Đỗ Thị Hồng C, giữ nguyên hình phạt như bản án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn K, áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo K 18 tháng cải tạo không giam giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 04/02/2020, sau khi chúc tết xong thì tại nhà của Bùi Văn P là người tổ chức cho các Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U, Đỗ Thị Hồng C, Phan Tấn T sử dụng nhà của mình để sát phạt nhau trên 02 chiếu bạc và cũng tự mình tham gia chơi đánh bạc. Bị cáo Nguyễn Thị B đã đưa cho bị cáo P 50.000đ đi mua bài. Tổng số tiền trên 02 chiếu bạc thu được là 15.430.000đ. Các bị cáo Bùi Văn P, Hoàng Văn K, Nguyễn Xuân U và Đỗ Thị Hồng C trực tiếp tham gia đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền với số tiền thu giữ trong vụ án dùng để đánh bạc là 11.480.000đ; bị cáo Phan Tấn T tham gia đánh bạc với số tiền 3.950.000đ.
Cấp sơ thẩm đánh giá toàn diện chứng cứ, đối chiếu lời khai của các bị cáo, người liên quan, đã tuyên bố bị cáo Bùi Văn P phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321; điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Tổ chức đánh bạc” điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các bị cáo Nguyễn Xuân U, Hoàng Văn K, Phan Tấn T, Đỗ Thị Hồng C phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Bùi Văn P, Đỗ Thị Hồng C, Hoàng Văn K: Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.
Hành vi đánh bạc của các bị cáo Bùi Văn P, Đỗ Thị Hồng C, Hoàng Văn K đã xâm phạm trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần xử lý nghiêm minh.
Bị cáo Bùi Văn P là người tổ chức đánh bạc, đóng vai trò chính trong vụ án và cũng tự mình tham gia đánh bạc. Tại giai đoạn sơ thẩm bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không xuất trình tình tiết giảm nhẹ nào mới, ngoài ra bị cáo còn bị xét xử về 2 tội nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
Bị cáo Đỗ Thị Hồng C mặc dù có 01 tiền án về tội “Đánh bạc”, sau khi xét xử do nhận thức hạn chế nên bị cáo không biết phải nộp tiền phạt nên đến khi phạm tội mới mới nộp tiền phạt. Bị cáo thành khẩn khai báo; là người già trên 70 tuổi nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm o, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hiện nay bị cáo đã lớn tuổi, có nhiều bệnh tật hạn chế việc đi lại, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp. Do bị cáo là người già nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo C.
Bị cáo Hoàng Văn K được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo đã nộp tiền phạt bổ sung nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo K.
[3] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; các bị cáo Hoàng Văn K, Đỗ Thị Hồng C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn P, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo P.
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đỗ Thị Hồng C, Hoàng Văn K; sửa bản án sơ thẩm.
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm a khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn P phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Bùi Văn P 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
Phạt bổ sung bị cáo Bùi Văn P 10.000.000đ sung ngân sách nhà nước.
- Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn K phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn K 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ.
Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 là 07 ngày tạm giữ = 21 ngày cải tạo không giam giữ). Bị cáo còn phải chấp hành 17 tháng 09 ngày cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Hoàng Văn K cho Ủy ban nhân dân xã Tu Tra, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương để theo dõi, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Hoàng Văn K.
Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Văn K 10.000.000đ sung ngân sách nhà nước (bị cáo đã đóng tiền phạt theo biên lai số AA/2017/0004569 ngày 23/4/2021 nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng).
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm o, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị Hồng C phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Hồng C 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ.
Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án (được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/02/2020 đến ngày 10/02/2020 là 07 ngày tạm giữ = 21 ngày cải tạo không giam giữ). Bị cáo còn phải chấp hành 17 tháng 09 ngày cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Đỗ Thị Hồng C cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương để theo dõi, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ.
Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đỗ Thị Hồng C.
2. Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Văn P phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Đỗ Thị Hồng C, Hoàng Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội đánh bạc số 72/2021/HS-PT
Số hiệu: | 72/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về