Bản án về tội đánh bạc số 71/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 71/2023/HS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 24 tháng 7 năm 2023 tại Hội trường xét xử hình sự của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2023/TLST - HS ngày 19 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2023/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thị B; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 28/5/1978 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ dân phố, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo không; Trình độ học vấn lớp 9/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Hoàng Tấn B, sinh năm 1944;

(Già yếu); Con bà Đỗ Thị V (Đã chết); Hiện bà trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Anh chị em ruột: Có 4 người, B là con thứ 3 trong gia đình; Chồng H, sinh năm 1975; Nghề nghiệp lao động tự do; Có 03 người con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2013; Hiện trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Tiền án, tiền sự không.

Nhân thân: Sinh ra lớn lên ở với bố mẹ, được nuôi ăn học đến lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà, lao động và lập gia đình sinh sống tại địa phương cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Thị H; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 10/2/1988 tại tỉnh Quảng Trị; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo Thiên Chúa Giáo; Trình độ học vấn lớp 12/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1950; Con bà Dương Thị Ả, sinh năm 1952; Hiện ông bà đang làm ruộng và trú tại: huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; Anh chị em ruột: Có 05 người, H là con út trong gia đình; Chồng Phan Đức V, sinh năm 1981; Nghề nghiệp thợ xây; Có 03 người con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2019; Hiện chồng con đang trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Sinh ra và lớn lên huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị được gia đình nuôi ăn học đến lớp 12/12 và tiếp tục học Cao đẳng Dược Huế. Đến năm 2009 tốt nghiệp ra trường năm 2010, lập gia đình tại tỉnh Thừa Thiên Huế làm nghề lao động tự do; Ngày 22/6/2016 bị Công an phường Bắc Lý xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”, đã thi hành xong năm 2019 chuyển về sinh sống tại Tổ dân phố 5, phường Bắc Lý, thành phố Đ cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

3. Võ Thị Th; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 24/10/1978 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo không; Trình độ học vấn lớp 9/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Võ Phi Th (Đã chết); Con bà Nguyễn T , sinh năm 1949; Nghề nghiệp lao động tự do; Hiện bà trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Anh chị em ruột có 4 người, Thắm là con út trong gia đình; Chồng Trương Tấn T, sinh năm 1970; Nghề nghiệp lao động tự do; Có 02 người con, lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2008;

Hiện chồng con trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Sinh ra lớn lên ở với bố mẹ tại phường Bắc Lý đến lớp 9/12 thì ở nhà, sau đó lập gia đình và sinh sống tại địa phương cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

4. Trần Thị M; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 10/9/1974 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo không; Trình độ học vấn lớp 3/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Trần Đình B, sinh năm 1943; (Hưu trí); Con bà Võ Thị T, sinh năm 1947; Nghề nghiệp lao động tự do;

Hiện ông, bà trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Anh chị em ruột có 5 người, Minh là con thứ tư trong gia đình; Chồng: Nguyễn Văn C (Đã chết); Có 03 người con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2012; Hiện trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Tiền án, tiền sự không.

Nhân thân: Sinh ra lớn lên ở với bố mẹ, được nuôi ăn học đến lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà, lao động và lập gia đình sinh sống tại địa phương cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

5. Doãn Thị Ng; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 21/3/1974 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo không; Trình độ học vấn lớp 7/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Doãn Văn N (Đã chết); Con bà Nguyễn Thị Ch (Đã chết); Anh chị em ruột có 06 người, Ng là con út trong gia đình; Chồng Nguyễn Văn D, sinh năm 1972; Nghề nghiệp lao động tự do; Có 02 người con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1996; Hiện trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Sinh ra và lớn lên tại xã Cao Quảng, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình được gia đình nuôi ăn học đến lớp 7/10. Năm 1994, lập gia đình đến năm 1998 chuyển đến sinh sống tại Tổ dân phố 6, phường Bắc Lý, thành phố Đ cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

6. Trần Thị Ngh; Tên gọi khác không; Giới tính nữ; Sinh ngày 15/12/1979 tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở:, xã Lộc Ninh, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo không; Trình độ học vấn lớp 4/12; Nghề nghiệp lao động tự do; Con ông Trần Đình B, sinh năm 1943; (Hưu trí); Con bà Võ Thị T, sinh năm 1947; Nghề nghiệp lao động tự do; Hiện ông, bà trú tại: phường Bắc Lý, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Anh chị em ruột có 5 người, Nghị là con út trong gia đình; Chồng Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1978; Nghề nghiệp công nhân; Có 02 người con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2005; Hiện chồng con trú tại:, xã Lộc Ninh, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Sinh ra lớn lên ở với bố mẹ tại phường Bắc Lý, được nuôi ăn học đến lớp 4/12 thì nghỉ học ở nhà, sinh sống tại địa phương. Sau khi lập gia đình, chuyển về sinh sống tại xã Lộc Ninh. Ngày 19/01/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Đánh bạc”, đã thi hành xong. Ngày 10/02/2020 bị Công an xã Lộc Ninh xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, đã chấp hành xong; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2023 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Võ Thị Th, sinh năm 1976;

địa chỉ: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 27/11/2022, Lực lượng Công an phường Bắc Lý phối hợp Đội Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Đ thực hiện kế hoạch tuần tra, kiểm soát đấu tranh tội phạm đánh bạc trái phép tại địa bàn thành phố Đ. Qua kiểm tra phát hiện các Doãn Thị N, Nguyễn Thị H, Trần Thị M, Võ Thị T, Trần Thị Ngh, Võ Thị Th có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh số lô số đề, quá trình điều tra xác minh các đối tượng trên khai nhận là thư ký đề bán số lô, số đề cho người chơi dựa vào kết quả xổ số kiến thiết miền Trung (Đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum) rồi tập hợp bảng đề, nhắn tin thông qua ứng dụng Zalo cho Hoàng Thị Bốn để xác định thắng thua.

Quá trình điều tra xác minh, Hoàng Thị B khai nhận đầu tháng 11/2022, B biết được cách đánh số lô, số đề nên nảy sinh ý định làm chủ lô đề để kiếm tiền. Để thực hiện làm chủ lô đề, Bốn liên hệ với Doãn Thị Ng, Nguyễn Thị H, Trần Thị Min, Võ Thị Th, Trần Thị Ngh, Võ Thị Th làm thư ký. Bốn thỏa thuận với các thư ký đánh bạc dựa vào kết quả xổ số kiến thiết miền Trung mở thưởng hằng ngày vào 17 giờ 15 phút, kết thúc lúc 17 giờ 30 phút để chọn hình thức đánh, đặt số đánh và tiền cược. Các thư ký đề sẽ bán số lô, số đề cho người chơi rồi tập hợp vào bảng đề gửi qua tin nhắn ZALO cho Bốn. Với 1.000.000 đồng tiền thực khách đánh bạc thư ký được hưởng 70.000 đồng. Để thực hiện hành vi, Bốn sử dụng điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, đăng ký tài khoản Zalo "Đá Xanh" không nhớ rõ số điện thoại đăng kí để nhận bảng đề từ các thư ký đề sau đó tập hợp lại và tính toán thắng thua. Với mỗi tin nhắn hoặc bảng đề Bốn đồng ý thì sẽ nhắn lại OK để xác nhận. Tiền thắng thua sẽ thanh toán vào ngày hôm sau. Bốn và các thư ký thống nhất sau khi thanh toán xong tiền của ngày nào sẽ xóa tin nhắn của ngày đó.

Quy ước trong bảng đề: Bảng đề là tờ giấy tập hợp các hình thức, số đánh và tiền đánh do thư ký đề lập. Hình thức đánh sẽ chia làm hai cột phân cách nhau bằng gạch dọc, cột bên trái là số đánh của khách, cột bên phải là số tiền khách đánh. Tiền ghi trên bảng đề được viết tắt, chỉ viết số phần nghìn. Số tiền ghi trên bảng đề gấp 1,3 lần tiền thực của người chơi (Ví dụ: số tiền ghi trên bảng đề là 13 tương ứng 13.000 đồng tiền đánh bạc và 10.000 đồng tiền thực của khách đánh bạc).

Quy ước trong tin nhắn đề: Tin nhắn đề được ghi liền mạch, theo thứ tự từ trái sang phải là hình thức đánh, số đánh và tiền đánh được tách biệt rõ ràng bằng dấu chấm. Số tiền trong tin nhắn được ghi tăng thêm 1,3 lần so với tiền thực tế đánh và không ghi số hàng trăm trở xuống. Tin nhắn được kí hiệu gồm: "c" là triệu đồng; “k" là nghìn đồng, “Dd” hoặc “dd” là đầu đuôi, “3đ” là Ba đuôi, “Lo” là hình thức Lô.

Quy ước về hình thức đánh và tỷ lệ ăn thua: Căn cứ kết quả xổ số kiến thiết miền Trung:

- Ba đuôi: Số người chơi chọn trùng với ba chữ số cuối của giải đặc biệt được ăn gấp 500 lần tiền đánh.

- Đầu: Số người chơi chọn trùng với giải tâm thì người chơi hưởng số tiền gấp 70 lần tiền đánh.

- Đuôi: Số người chơi chọn trùng với hai chữ số cuối của giải đặc biệt thì được hưởng gấp 70 lần tiền đánh.

- Đầu + đuôi: Số người chơi chọn trùng với hai chữ số cuối của giải đặc biệt hoặc giải 8 thì được hưởng gấp 70/2 lần tiền đánh.

- 18 lô: Số người chơi chọn trùng với giải 8 hoặc hai chữ số cuối các giải từ giải 7 đến giải đặc biệt thì hưởng gặp 70/18 lần tiền đánh.

- 17 lô: Số người chơi chọn trùng với 3 chữ số cuối của tất cả các giải trừ giải 8 thì được hưởng gấp 500/17 lần tiền đánh.

- 6 lô: Số người chơi chọn trùng với 03 số cuối các giải năm, sáu, bảy hoặc đặc biệt thì được hưởng gấp 500/6 lần tiền đánh.

Trên cơ sở quy ước cách thức đánh bạc bằng hình thức lô, đề nêu trên. Ngày 27/11/2022 các thư ký đề Doãn Thị Nga, Nguyễn Thị Hà, Trần Thị Minh, Võ Thị Thắm, Trần Thị Nghị, Võ Thị Thương ghi số lô, số đề từ khách, sau đó tập hợp thành bảng đề, sử dụng điện thoại di động chụp ảnh bảng đề gửi cho Hoàng Thị Bốn thông qua ứng dụng Zalo để nhận tiền hoa hồng 70.000 đồng trên 1.000.000 đồng tiền thực đánh. Tại thời điểm phát hiện hành vi đánh bạc kết quả xổ số miền Trung (Đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum) chưa mở thưởng. Cụ thể:

Hoàng Thị B đánh bạc cùng các thư ký đề đủ yếu tố cấu thành tội phạm:

- Hoàng Thị Bốn sử dụng tài khoản ZALO "Đá Xanh" đánh bạc với Doãn Thị Ng qua tài khoản ZALO “Nga Doãn". Số tiền trên bảng đề ở đài miền Trung, tiền thực đánh 5.943.846 đồng, tiền ghi trên bảng đề 7.727.000 đồng. Số tiền đánh bạc ở đài miền Trung là 7.727.000 đồng.

- Hoàng Thị B sử dụng tài khoản ZALO "Đá Xanh" đánh bạc với Nguyễn Thị H tài khoản ZALO "Nguyenthiha". Số tiền trên bảng đề ở đài miền Trung, tiền thực đánh 10.736.923 đồng, tiền ghi trên bảng đề 13.958.000 đồng. Số tiền đánh bạc ở đài miền Trung 13.958.000 đồng.

- Hoàng Thị B sử dụng tài khoản ZALO "Đá Xanh" đánh bạc với Trần Thị Minh tài khoản ZALO "Cc”. Số tiền trên bảng đề ở đài miền Trung, tiền thực đánh 7.094.615 đồng, tiền ghi trên bảng đề 9.223.000 đồng. Số tiền đánh ở đài miền Trung 9.223.000 đồng.

- Hoàng Thị B sử dụng tài khoản ZALO "Đá Xanh" đánh bạc với Võ Thị Th tài khoản ZALO “Võ Thị Thắm”. Số tiền trên bảng đề ở đài miền Trung, tiền thực đánh 7.676.153 đồng, tiền ghi trên bảng đề 9.979.000 đồng. Số tiền đánh bạc ở đài miền Trung là 9.979.000 đồng.

- Hoàng Thị B sử dụng tài khoản ZALO "Đá xanh" đánh bạc với Trần Thị Ngh tài khoản ZALO “Dạ Thảo”. Số tiền trên bảng đề ở đài miền Trung, tiền thực đánh 4.590.769 đồng, tiền ghi trên bảng đề 5.968.000 đồng. Số tiền đánh bạc đài miền Trung là 5.968.000 đồng.

Hoàng Thị B đánh bạc với thư kí đề không đủ yếu tố cấu thành tội phạm:

- Hoàng Thị B sử dụng tài khoản ZALO "Đá Xanh" đánh bạc với Võ Thị Th tài khoản ZALO “Vo Thuong”. Số tiền đánh bạc đài miền Trung, tiền thực đánh 732.307 đồng, tiền ghi trên bảng đề 952.000 đồng. Số tiền đánh bạc đài miền Trung là 952.000 đồng.

Như vậy, Hoàng Thị B đã tham gia đánh bạc với 06 thư ký đề với tổng số tiền đánh bạc theo kết quả xổ số Miền Trung 47.807.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đ đã trích xuất dữ liệu điện tử bằng hình ảnh của các tin nhắn đề và bảng đề mà các đối tượng đánh bạc với nhau thông qua đưa vào hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đ đã thu giữ và nộp tại tài khoản Kho bạc Nhà Nước tỉnh Quảng Bình của Công an Thành phố Đ số tiền 8.115.000 đồng vật chứng.

Thu giữ:

- 01 điện thoại SAMSUNG GALAXY J7 màu vàng, số IMEI 1 357625087905165, số IMEI 2: 357651087905161, số điện thoại 0367357806; 01 bảng đề ngày 27/11/2022. Tiền Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam: 1.185.000 đồng thu giữ từ Doãn Thị Ng.

- 01 máy tính bảng SAMSUNG GALAXY TAB A, màu trắng, số IMEI:

358525082288477 đã qua sử dụng, 01 bảng đề ngày 27/11/2022. Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 800.000 đồng thu giữ từ Nguyễn Thị H.

- 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6S màu vàng, số IMEI:

356137092738871, số điện thoại 0394852009, đã qua sử dụng, 03 bảng đề ngày 27/11/2022. Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 170.000 đồng thu giữ từ Trần Thị M.

- 01 điện thoại VIVO 1819 màu đỏ, số IMEI 1: 863481049959990, số IMEI 2: 863481049959982, số điện thoại 0984158693, đã qua sử dụng; 01 bảng đề ngày 27/11/2022. Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 2.830.000 đồng thu giữ từ Võ Thị Th.

- 01 điện thoại OPPO A15S màu xanh dương, số IMEI 1: 866314059083350, số IMEI 2: 86631459083343, đã qua sử dụng; 01 bảng đề ngày 27/11/2022; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.570.000 đồng thu giữ từ Trần Thị Ngh.

- 01 điện thoại di động hiệu REDMI 9, màu xanh, số IMEI 1:

86047405549630701; IMEI 2: 86047405549631501, số điện thoại 0356312119, đã qua sử dụng; 01 bảng đề ngày 27/11/2022; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

560.000 đồng thu giữ từ Võ Thị Th.

Kết quả trưng cầu giám định: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hải đã ra Quyết định trưng cầu Phòng PC09 - Công an tỉnh Quảng Bình giám định tiền vật chứng thu giữ được. Ngày 13/01/2023, Phòng PC09 - Công an tỉnh Quảng Bình có Kết luận số 51/KL-GĐ kết luận: Tổng số tiền 8.115.000 đồng thu giữ là tiền thật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Số tiền đánh bạc các bị cáo và người liên quan chưa chuyển cho Hoàng Thị B nên phải nộp để sung vào Ngân sách Nhà nước. Quá trình điều tra, Doãn Thị Ng đã nộp 1.185.000 đồng, Nguyễn Thị H 800.000 đồng, Trần Thị Minh 170.000 đồng, Trần Thị Ngh 2.570.000 đồng, Võ Thị Th 2.830.000 đồng, Võ Thị Th 560.000 đồng. Vì vậy, số tiền các bị can và người liên quan còn phải nộp để sung vào Ngân sách Nhà nước: Doãn Thị Ng phải nộp 6.542.000 đồng, Nguyễn Thị H 13.158.000 đồng, Trần Thị M 9.053.000 đồng, Trần Thị Nghị 3.398.000 đồng, Võ Thị Th 7.149.000 đồng, Võ Thị Th 392.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKSĐH-TA ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 36 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Hoàng Thị B, từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Và phạt tiền bổ sung từ 30 đến 40 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 36 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Nguyễn Thị H, từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Và phạt tiền bổ sung từ 10 đến 20 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 36 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Võ Thị Th, phạt tiền từ 25 đến 30 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 36 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Trần Thị M, phạt tiền từ 25 đến 30 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 36 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Doãn Thị Ng, phạt tiền từ 25 đến 30 triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, 65 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Trần Thị Ngh, từ 09 đến 12 tháng từ cho hưởng án treo, phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng.

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại SAMSUNG GALAXY J7 màu vàng, số IMEI 1 357625087905165, số IMEI 2:

357651087905161, số điện thoại 0367357806 của Doãn Thị Nga; 01 máy tính bảng SAMSUNG GALAXY TAB A, màu trắng, số IMEI: 358525082288477 đã qua sử dụng, của Nguyễn Thị Hà; 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6S màu vàng, số IMEI: 356137092738871, số điện thoại 0394852009, đã qua sử dụng, của Trần Thị Minh; 01 điện thoại VIVO 1819 màu đỏ, số IMEI 1: 863481049959990, số IMEI 2: 863481049959982, số điện thoại 0984158693, đã qua sử dụng của Võ Thị Thắm; 01 điện thoại OPPO A15S màu xanh dương, số IMEI 1:

866314059083350, số IMEI 2: 86631459083343, đã qua sử dụng của Trần Thị Nghị; 01 điện thoại di động hiệu REDMI 9, màu xanh, số IMEI 1:

86047405549630701; IMEI 2: 86047405549631501, số điện thoại 0356312119, đã qua sử dụng của Võ Thị Th.

Buộc Nguyễn Thị H phải nộp số tiền 13.958.000 đồng đã nộp 800.000 đồng, còn thiếu 13.158.000 đồng Buộc Võ Thị Th phải nộp số tiền 9.979.000 đồng đã nộp 2.830.000 đồng, còn thiếu 7.149.000 đồng Buộc Trần Thị M phải nộp số tiền 9.223.000 đồng đã nộp 170.000 đồng, còn thiếu 9.053.000 đồng Buộc Doãn Thị Ng phải nộp số tiền 7.727.000 đồng đã nộp 1.185.000 đồng, còn thiếu 6.542.000 đồng Buộc Trần Thị Ngh phải nộp số tiền 5.968.000 đồng đã nộp 2.570.000 đồng, còn thiếu 3.398.000 đồng.

Buộc Võ Thị Th phải nộp số tiền 952.000 đồng đã nộp 560.000 đồng, còn thiếu 392.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2]. Bị cáo Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp cả về mặt thời gian, địa điểm và diễn biến quá trình phạm tội cụ thể; Hoàng Thị B đã thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề với 06 thư ký đề với tổng số tiền là 47.807.000 đồng. Trong đó đánh với Nguyễn Thị H số tiền 13.958.000 đồng, Võ Thị Th số tiền 9.979.000 đồng, Trần Thị M số tiền 9.223.000 đồng, Doãn Thị Ng số tiền 7.727.000 đồng, Trần Thị Ngh số tiền 5.968.000 đồng, Võ Thị Th số tiền 952.000 đồng theo kết quả xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum. Hành vi của Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh đã phạm vào tội “Đánh bạc” quy định theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm các quy định của pháp luật xâm phạm đến trật tự công cộng. Các bị cáo đều biết rõ tác hại của việc đánh bạc nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật hình sự, mà còn gây tác hại xấu cho xã hội gây tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an trên địa bàn nên phải xử phạt mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra mới có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng:

- Đối với Hoàng Thị, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh không có tình tiết tăng nặng.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ:

- Đối với Hoàng Thị B, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố là người có công với cách mạng, có đơn xác nhận của UBND chồng bỏ đi đâu từ hơn 05 năm nay một mình nuôi ba con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với Nguyễn Thị H, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với Võ Thị Th, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra, truy tố thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố, mẹ là người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với Trần Thị M, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

Quá trình điều tra, truy tố có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố là người có công với cách mạng, có hoàn cảnh khó khăn chồng chết sớm, hiện nuôi con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với Doãn Thị Ng; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn được UBND phường Bắc Lý xác nhận; Anh trai là thương binh và có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Đối với Trần Thị Ngh, quá trình điều tra, truy tố đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố là người có công với cách mạng, chồng bị bệnh hiểm nghèo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Đối với Th tham gia đánh bạc cùng với Bốn nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ đã xử phạt hành chính về hành vi này. Nhưng trước toà cần phân tích rút kinh nghiệm chung.

[7] Đối với bị cáo Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, đại diện VKS đề nghị phạt cải tạo không giam giữ và phạt tiền bổ sung đối với hai bị cáo, thấy phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[8] Đối với bị cáo Võ Thị Th, Trần Thị M Doãn Thị Ng, đại diện VKS đề nghị phạt tiền đối với ba bị cáo thấy phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của ba bị cáo.

[9] Đối với bị cáo Trần Thị Ngh, đại diện VKS đề nghị phạt từ 09 đến 12 tháng từ cho hưởng án treo, và hình phạt bổ sung phạt tiền. Thấy bị cáo Nghị mặc dùng ngày 19/01/2009 đã bị xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội đánh bạc, nhưng đến nay đã xoá án tích, không coi là tiền án, trong lần phạm tội này Nghị đánh bạc chỉ 5.968.000 đồng số tiền nhỏ, do đó HĐXX thấy quá nặng đối với hàng vi phạm tội của Ngh, nên cho nghị hưởng mức án cải tạo không giam giữ, và phạt tiền bổ sung đối với Ngh.

[10] Về vật chứng: 01 điện thoại SAMSUNG GALAXY J7 màu vàng, số IMEI 1 357625087905165, số IMEI 2: 357651087905161, số điện thoại 0367357806 của Doãn Thị Nga; 01 máy tính bảng SAMSUNG GALAXY TAB A, màu trắng, số IMEI: 358525082288477 đã qua sử dụng, của Nguyễn Thị H; 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6S màu vàng, số IMEI: 356137092738871, số điện thoại 0394852009, đã qua sử dụng, của Trần Thị M; 01 điện thoại VIVO 1819 màu đỏ, số IMEI 1: 863481049959990, số IMEI 2: 863481049959982, số điện thoại 0984158693, đã qua sử dụng của Võ Thị Th; 01 điện thoại OPPO A15S màu xanh dương, số IMEI 1: 866314059083350, số IMEI 2: 86631459083343, đã qua sử dụng của Trần Thị Ngh; 01 điện thoại di động hiệu REDMI 9, màu xanh, số IMEI 1: 86047405549630701; IMEI 2: 86047405549631501, số điện thoại 0356312119, đã qua sử dụng của Võ Thị Thương. Đây là công cụ phương tiện phạm tội tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[11] Về số tiền đánh bạc các bị cáo và người liên quan tổng số tiền là 47.807.000 đồng. Trong đó đánh với Nguyễn Thị H số tiền 13.958.000 đồng, Võ Thị Th số tiền 9.979.000 đồng, Trần Thị M số tiền 9.223.000 đồng, Doãn Thị Ng số tiền 7.727.000 đồng, Trần Thị Ngh số tiền 5.968.000 đồng, Võ Thị Th số tiền 952.000 đồng. Đây là công cụ phương tiện phạm tội, trong quá trình điều tra các bị cáo và người liên quan đã nộp 8.115.000 đồng cụ thể:

- Nguyễn Thị H phải nộp số tiền 13.958.000 đồng đã nộp 800.000 đồng còn thiếu 13.158.000 đồng - Võ Thị Th phải nộp số tiền 9.979.000 đồng đã nộp 2.830.000 đồng, còn thiếu 7.149.000 đồng - Trần Thị M phải nộp số tiền 9.223.000 đồng đã nộp 170.000 đồng còn thiếu 9.053.000 đồng - Doãn Thị Ng phải nộp số tiền 7.727.000 đồng đã nộp 1.185.000 đồng còn thiếu 6.542.000 đồng - Trần Thị Ngh phải nộp số tiền 5.968.000 đồng đã nộp 2.570.000 đồng, đồng còn thiếu 3.398.000 đồng - Võ Thị Th phải nộp số tiền 952.000 đồng đã nộp 560.000 đồng, còn thiếu 392.000 đồng.

[12]. Về án phí:

- Án phí hình sự mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

- Án phí dân sự:

Nguyễn Thị H 13.358.000 đồng x 5% = 667.000 đồng. Võ Thị Th 7.149.000 đồng x 5% = 357.000 đồng.

Trần Thị M 9.053.000 đồng x 5% = 452.000 đồng Doãn Thị Ng 6.542.000 đồng x 5% = 327.000 đồng Trần Thị Ngh 3.398.000 đồng là 300.000 đồng

[10]. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Thị B 30 (ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Hoàng Thị B cho UBND phường Bắc Lý, thành phố Đ, giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ, tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nhận được quyết định thi hành án.

Về khấu trừ thu nhập hiện nay bị cáo Bốn không có công việc ổn định nên không khấu trừ thu nhập.

- Xử phạt bổ sung bị cáo Hoàng Thị B số tiền 25.000.000 đồng (hai lăm triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

2.2. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho UBND phường Bắc Lý, thành phố Đ, giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ, tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nhận được quyết định thi hành án và bản sao án văn.

Về khấu trừ thu nhập hiện nay bị cáo H không có công việc ổn định nên không khấu trừ thu nhập.

- Xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị H số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Th số tiền 25.000.000 đồng (hai lăm triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

2.4. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thị M số tiền 25.000.000 đồng (hai lăm triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

2.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Doãn Thị Ng số tiền 25.000.000 đồng (hai lăm triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

2.6. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngh 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho UBND xã Lộc Ninh, thành phố Đ, giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ, tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nhận được quyết định thi hành án.

Về khấu trừ thu nhập hiện nay bị cáo Ngh không có công việc ổn định nên không khấu trừ thu nhập.

- Xử phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Ngh số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), để nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại SAMSUNG GALAXY J7 màu vàng, số IMEI 1357625087905165, số IMEI 2: 357651087905161, số điện thoại 0367357806 máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Doãn Thị Nga; 01 máy tính bảng SAMSUNG GALAXY TAB A, màu trắng, số IMEI: 358525082288477 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Nguyễn Thị H; 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6S màu vàng, số IMEI:

356137092738871, số điện thoại 0394852009, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Trần Thị M; 01 điện thoại VIVO 1819 màu đỏ, số IMEI 1:

863481049959990, số IMEI 2: 863481049959982, số điện thoại 0984158693, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Võ Thị Th; 01 điện thoại OPPO A15S màu xanh dương, số IMEI 1: 866314059083350, số IMEI 2:

86631459083343, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Trần Thị Ngh; 01 điện thoại di động hiệu REDMI 9, màu xanh, số IMEI 1:

86047405549630701; IMEI 2: 86047405549631501, số điện thoại 0356312119, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong của Võ Thị Thương.

- Buộc Nguyễn Thị H nộp lại số tiền 13.958.000 đồng đã nộp 800.000 đồng còn thiếu 13.158.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Buộc Võ Thị Th nộp lại số tiền 9.979.000 đồng đã nộp 2.830.000 đồng, còn thiếu 7.149.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Buộc Trần Thị M nộp lại số tiền 9.223.000 đồng đã nộp 170.000 đồng còn thiếu 9.053.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Buộc Doãn Thị Ng nộp lại số tiền 7.727.000 đồng đã nộp 1.185.000 đồng còn thiếu 6.542.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Buộc Trần Thị Ngh nộp lại số tiền 5.968.000 đồng đã nộp 2.570.000 đồng, đồng còn thiếu 3.398.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Buộc Võ Thị Th nộp lại số tiền 952.000 đồng đã nộp 560.000 đồng, đồng còn thiếu 392.000 đồng phải nộp tiếp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo biên lai thu tiền số 0001582 ngày 20/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).

(Số tiền các bị cáo đã nộp trên theo biên lai thu tiền số 0001582 ngày 20/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).

Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/7/2023.

4. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Hoàng Thị B, Nguyễn Thị H, Võ Thị Th, Trần Thị M, Doãn Thị Ng, Trần Thị Ngh mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

- Án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc Nguyễn Thị H phải nộp 667.000 đồng, để nộp ngân sách Nhà nước. Buộc Võ Thị phải nộp 357.000 đồng, để nộp ngân sách Nhà nước.

Buộc Trần Thị M phải nộp 452.000 đồng, để nộp ngân sách Nhà nước. Buộc Doãn Thị Ng phải nộp 327.000 đồng, để nộp ngân sách Nhà nước.

Buộc Trần Thị Ngh phải nộp 300.000 đồng, để nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 24/7/2023, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 71/2023/HS-ST

Số hiệu:71/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về