Bản án về tội đánh bạc số 66/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 66/2022/HS-PT NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo Trần Thị Thu B, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST, ngày 12 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có kháng cáo: Trần Thị Thu B, sinh năm 1968.

Đăng ký thường trú: Khu phố K, thị trấn L, huyện L, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở: Khu vực H1, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ. Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn U, sinh năm 1945 (đã chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1947; chồng: Huỳnh Văn T1, sinh năm 1968; con có 04 người (lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 2001).

Tiền sự: Chưa. Tiền án: 01 lần, ngày 09/8/2019 bị Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 06 tháng tù về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST. Ngày 08/02/2020 chấp hành xong hình phạt tù theo giấy chứng nhận số 176/GCN của Trại giam Định Thành, nhưng chưa nộp tiền án phí hình sự và dân sự.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Như H – Văn phòng Luật sư Th, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ.

Trong vụ án còn có các bị cáo Dư Hồng V, Nguyễn Thị Diễm T2 và người tham gia tố tụng khác, do không có kháng cáo và cũng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 50 phút, ngày 05/7/2021, Công an phường T, quận N, thành phố Cần Thơ kiểm tra phát hiện Nguyễn Thị Diễm T2, Trần Thị Thu B có hành vi mua bán số đề tại thuộc khu vực H1, phường T. Tang vật, tài sản thu giữ gồm:

04 tờ giấy có ghi các con số; 01 cây viết bút bi đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam: 2.949.000đồng.

Quá trình điều tra, Trần Thị Thu B khai nhận: Vào ngày 05/7/2021, Thu B đưa cho Nguyễn Thị Diễm T2 01 tờ giấy có ghi các con số với mục đích mua số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài Đồng Tháp, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội; trong đó, đài Đồng Tháp mua với số tiền là 780.000đồng, đã có kết quả xổ số trúng thưởng với số tiền 4.400.000 đồng, đài thành phố Hồ Chí Minh mua với số tiền 100.000đồng, đã có kết quả xổ số không trúng thưởng, đài Hà Nội mua với số tiền là 1.675.000đồng, kết quả xổ số trúng thưởng với số tiền 800.000đồng. Trong số tiền mua số và trúng thưởng thì Dư Hồng V nhờ Thu B mua đài Đồng Tháp với số tiền 650.000đồng, kết quả trúng thưởng 4.400.000đồng và đài Hà Nội với số tiền 1.520.000, kết quả trúng thưởng 800.000đồng, V chưa đưa tiền mua số và chưa nhận tiền trúng thưởng. Ngoài ra, ngày 04/7/2021, Thu B cũng mua số đề của Diễm T2, đài Tiền Giang số tiền 170.000đồng, đài Kiên Giang với số tiền 150.000đồng, kết quả xổ số không trúng thưởng.

Nguyễn Thị Diễm T2 thừa nhận: Vào ngày 04/7/2021, Thu B đưa Diễm T2 tờ giấy có ghi các con số đề nhờ Diễm T2 mua số đề đài Tiền Giang với số tiền 170.000đồng, đài Kiên Giang với số tiền 150.000đồng, T2 đồng ý. Sau đó, T2 đến gặp L (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể) ở Cần Đước thuộc khu vực H1, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ đọc các con số đề ghi trong tờ giấy của Thu B cho L và đưa L số tiền với 320.000đồng, kết quả xổ số không trúng thưởng, L cho T2 20.000đồng. Đến ngày 05/7/2021, Thu B tiếp tục nhờ T2 mua số đề đài Đồng Tháp mua với số tiền là 780.000đồng, đài thành phố Hồ Chí Minh mua số tiền 100.000đồng, đài Hà Nội mua số tiền là 1.675.000đồng nhưng chưa đưa tiền mua số. Sau đó, T2 đến gặp L đọc các con số đề, đài, số tiền của Thu B mua, đồng thời T2 còn mua số đề đài Đồng Tháp với số tiền 435.000đồng. Kết quả xổ số, Thu B trúng thưởng đài Đồng Tháp với số tiền 4.400.000đồng, đài Hà Nội trúng thưởng với số tiền 800.000đồng. Khi có kết quả xổ số thì L đưa cho T2 số tiền 750.000đồng để T2 gửi một phần tiền trúng thưởng cho Thu B. Sau khi nhận tiền của L, Diễm T2 đến nhà của Thu B để tính tiền mua số đề và tiền trúng thưởng thì bị Công an phường phát hiện.

Đối với Dư Hồng V thừa nhận: Vào ngày 05/7/2021, V có nhờ Trần Thị Thu B mua các số đề của các lô đề đài Đồng Tháp với tổng số tiền 650.000đồng cụ thể như sau: Lô A: số 50 với số tiền 50.000 đồng, số 51 với số tiền 100.000đồng, số 52 với số tiền 50.000đồng; Bao lô: số 50 với số tiền 5.000đồng, số 51 với số tiền 20.000đồng, số 52 với số tiền 5.000đồng; Đài Hà Nội với tổng số tiền 1.520.000đồng gồm Lô A: số 50 với số tiền 50.000đồng, số 51 với số tiền 50.000đồng, số 52 với số tiền 50.000đồng; Bao lô: số 50 với số tiền 10.000đồng, số 51 với số tiền 20.000đồng, số 52 với số tiền 10.000đồng, V chưa đưa tiền mua số đề cho Thu B. Kết quả xổ số, V trúng thưởng đài Đồng Tháp số 52 Lô A và Bao lô với số tiền 4.400.000đồng, đài Hà Nội Bao lô số 52 với số tiền 800.000đồng nhưng chưa nhận tiền trúng thưởng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Diễm T2 tự nguyện giao nộp tiền thu lợi 20.000đồng. Đối với người tên L do Nguyễn Thị Diễm T2 không xác định được họ, tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N không tiến hành làm việc được.

Tại bản án số 36/2022/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2022, Tòa án nhân dân quận N đã căn cứ theo các Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thu B 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, vào ngày 18 tháng 5 năm 2022, bị cáo Trần Thị Thu B có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo thay đổi yêu cầu kháng cáo xin được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính do bị cáo đang bị bệnh phải tái khám định kỳ 02 tháng 01 lần theo chỉ định của bác sĩ.

Bào chữa cho bị cáo, Luật sư Nguyễn Như H phát biểu: Bị cáo có tiền án nhưng không cùng loại tội đang bị xét xử; tại phiên tòa bị cáo có cung cấp giấy khám bệnh của bác sĩ thể hiện bị cáo đang có bệnh phụ nữ và đang phải điều trị bệnh. Bị cáo xin được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính để có thời gian điều trị bệnh là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Số tiền bị cáo dùng để đánh bạc bằng hình thức mua lô đề theo đài Đồng Tháp ngày 05/7/2021 đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 là có căn cứ, bị cáo có tiền án nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội có thời hạn để cải tạo, giáo dục là cần thiết. Mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp có xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Qua đối chiếu lời khai và các chứng cứ thu thập được, thể hiện trong ngày 05/7/2021 bị cáo đã mua số đề theo kết quả xổ số kiến thiết tỉnh Đồng Tháp với số tiền 780.000đồng. Trong đó số tiền Dư Hồng V nhờ bị cáo mua đề là 650.000đồng; cụ thể, lô A: số 50 với số tiền 50.000 đồng, số 51 với số tiền 100.000đồng, số 52 với số tiền 50.000đồng; Bao lô: số 50 với số tiền 5.000đồng, số 51 với số tiền 20.000đồng, số 52 với số tiền 5.000đồng. Tỷ lệ thắng thua đối với số đầu, đuôi, bao lô 02 con số là 01 trúng 80. Kết quả mở thưởng lô A số 52 trúng được 4.000.000đồng (50.000đồng x 80), bao lô số 52 trúng được 400.000đồng (5.000đồng x 80.000đồng). Bị cáo là người trực tiếp mua đề, tính và nhận tiền khi có trúng thưởng với người bán để giao lại cho Dư Hồng V. Số tiền bị cáo và Dư Hồng V dùng để đánh bạc ngày 05/7/2021 đủ để quy kết trách nhiệm hình sự như bản án sơ thẩm đã tuyên. Việc xét xử bị cáo là đồng phạm về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo tại phiên tòa nhận thấy: Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, sống đặt mình trong khuôn khổ pháp luật; biết rõ hành vi đánh bạc được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn hưởng lợi mà không phải bỏ sức lao động nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ vi phạm của bị cáo và vận dụng các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng, hình phạt đã tuyên là phù hợp. Lý do kháng cáo như bị cáo nêu không phải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật là không nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên giữ nguyên hình phạt đã tuyên là có cơ sở để chấp nhận.

[4] Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[5] Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thu B; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Thu B phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thu B 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.

Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

474
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 66/2022/HS-PT

Số hiệu:66/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về