Bản án về tội đánh bạc số 63/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 63/2022/HS-PT NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17/5/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/TLPT-HS ngày 01/4/2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn H, Đặng Kỳ A do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 24/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1994, Giới tính: Nam (Tên gọi khác: Không); Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn Hóa: 10/12; Con ông: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1971; Con bà: Hà Thị H2, sinh năm 1974; Vợ: Trần Thị Q, sinh năm 1997; Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019; Gia đình có 02 anh em, Bị cáo là con cả; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án hình sự số 145/2018/HSST ngày 28/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Nguyễn Văn H 07 (Bẩy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội “Đánh bạc” (đã chấp hành xong án phạt tù cho hưởng án treo ngày 28/11/2019).

Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (có mặt).

2. Họ và tên: Đặng Kỳ A, sinh năm 1980, Giới tính: Nam (Tên gọi khác: Không); Nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn Hóa: 6/12; Con ông: Đặng Văn B, sinh năm 1952; Con bà: Lưu Thị T, sinh năm 1954; Vợ: Trần Thị S, sinh năm 1987; Con: Bị cáo có 04 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014; Gia đình có 03 anh chị em, Bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 21/3/2016, Đặng Kỳ A bị Trưởng Công an huyện Hiệp Hòa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 21/12/2021. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Trong vụ án này còn có một số bị cáo, một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và liên quan đến kháng cáo Tòa phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có công việc ổn định, Trần Văn Nh, sinh năm 1971 ở thôn T, xã L, huyện H nảy sinh ý định cho các đối tượng đánh bạc tại nhà để thu tiền hồ. Nh đã chuẩn bị sẵn một bộ bài tú lơ khơ, thảm nỉ phục vụ cho các đối tượng đến đánh bạc. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 15/12/2021, Nh điện thoại cho đối tượng Đặng Kỳ A rủ đến đánh bạc, sau đó các đối tượng Hoàng Văn Đ, sinh năm 1985 ở thôn C, xã Ph, huyện T, tỉnh Bắc Giang; Đặng Kỳ A, sinh năm 1980 ở thôn T, xã L, huyện H; Nguyễn Trung D, sinh năm 1993 ở thôn Kh, xã L, huyện H, Nguyễn Văn H, sinh năm 1994 ở thôn Đ, xã L huyện H đến nhà Nh để đánh bạc. Khi bắt đầu đánh bạc có Đ, H, C và Kỳ A đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền, hình thức chơi “liêng”, được khoảng 30 phút thì đối tượng Ngọ Văn M, sinh năm 1998 ở thôn Ng, xã Ch, huyện H và Nguyễn Văn S, sinh năm 1985 ở thôn T, xã L, huyện H đến tham gia đánh bạc. Sau khi S đến thì H nghỉ không đánh bạc và Nguyễn Trung D vào thay H để đánh bạc tiếp cùng các đối tượng. Nh không tham gia đánh bạc mà đứng mở cổng, cửa và canh gác cho các đối tượng trên đánh bạc. Quá trình đánh bạc Nh thu được 500.000 đồng tiền hồ của các đối tượng. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm: Thu giữ tại vị trí các đối tượng ngồi đánh bạc 13.000.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân; 01 thảm nỉ màu đỏ xanh. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ trên người các đối tượng một số đồ vật, tài sản cụ thể: Hoàng Văn Đ 01 chiếc điện thoại di động Huawei và 9.000.000 đồng; Đặng Văn C 01 chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus và 01 ví da màu đen bên trong có 14.000.000 đồng; thu tại túi quần bên phải C đang mặc 1.500.000 đồng; Đặng Kỳ A 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu bạc; Ngọ Văn M 01 chiếc điện thoại Sam Sung A5 màu hồng và 100.000 đồng; Nguyễn Trung D 01 chiếc điện thoại di động Vivo Y21 màu xA đen; Trần Văn Nh 01 chiếc điện thoại di động Redmi màu đen; Nguyễn Văn H 01 chiếc điện thoại di động Iphone X màu hồng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn Nh. Kết quả thu giữ 06 xe mô tô các loại.

Trong quá trình cơ quan Công an bắt quả tang, đối tượng Nguyễn Văn S tham gia đánh bạc đã trốn thoát, đến ngày 17/12/2021 S đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi đánh bạc cùng các đối tượng.

Về hình thức đánh bạc (đánh Liêng) và mức sát phạt được quy định cụ thể như sau : Trong một bộ bài tú lơ khơ có 52 cây (quân) bài, người cầm cái là người chia bài sẽ chia cho mỗi người chơi 3 cây bài và ba cây bài này những người chơi cùng còn lại không biết. Sau đó những người chơi lấy bài và xem bài của mình. Lượt chơi sẽ thực hiện theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, người nào cầm cái chia bài sẽ được quyền tố trước hoặc bỏ trước. Đến lượt người chơi tiếp theo có 3 lựa chọn: Tố: Đồng ý thêm tiền bằng tiền người trước tố để tiếp tục tham gia lượt chơi và đặt cược thêm một số tiền cược không giới hạn số tiền ; Theo: Chấp nhận bỏ ra thêm tiền bằng tiền người liền trước tố để theo lượt người trước tố và không tố thêm ; Bỏ: không tham gia tiếp ván đó nữa và sẽ bị mất toàn bộ số tiền đã cược trong ván chơi đó.

Ván chơi sẽ kết thúc khi không có ai tố thêm. Nếu còn lại ít nhất 2 người chơi theo vòng tố thì tất cả người chơi đó sẽ hạ bài ra để so điểm. Bài ai có nước bài cao nhất sẽ thắng. Nếu cuối cùng chỉ còn lại 1 người theo vòng thì người đó thắng toàn bộ số tiền trên bàn và bài người đó sẽ vẫn được giấu kín.

Các nước bài trong chơi Liêng được tính như sau: Sáp - là ba lá bài giống nhau, ví dụ như ba lá 3 thì gọi là sáp 3. Nếu hai người cùng có sáp thì người nào có sáp cao hơn sẽ thắng, đi từ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, Át ; Liêng - là ba lá bài liên tiếp nhau. Ví dụ như: 3, 4, 5. Liêng cao nhất là Q, K, Át và thấp nhất là Át, 2, 3. Khi hai người chơi đều có Liêng, thì ai có liêng cao hơn sẽ thắng. Khi có hai liêng bằng nhau người ta sẽ tìm ra cây có chất cao nhất để so sánh. Chất cao nhất trong bài liêng là Rô, sau đó đến Cơ, Tép và cuối cùng là Pích ; Ảnh - là 03 lá bài của người chơi đều có hình đầu người (quân J, Q, K) thì được gọi là ảnh. Khi hai người chơi đều có ảnh thì bắt buộc so sánh đến chất cao nhất của bài. Nếu chất bằng nhau thì so sánh đến quân bài, quân bài so sánh từ thấp lên cao là 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, Át ;

Điểm: Khi bài của người chơi không có Sáp, Liêng, Ảnh thì tính điểm.

Điểm của ba quân bài được cộng lại được bao nhiêu chỉ lấy hàng đơn vị chính là điểm của bài. Trong đánh bài liêng điểm sắp xếp từ cao xuống thấp 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1, 0. Điểm của các quân bài được tính như sau: Các quân 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 được tính với số điểm tương ứng 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Quân Át được tính 1 điểm. Các quân 10, J, Q, K đều được tính 0 điểm. Khi hai người chơi có số điểm bằng nhau thì so sánh quân bài có chất cao nhất. Nếu cùng chất thì so sánh quân. Quân từ thấp đến cao là 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, Át.

Chơi liêng nước bài từ cao xuống thấp được quy định như sau: Cao nhất là sáp, thấp hơn sáp là liêng. Liêng đồng chất là cả ba cây bài có cùng chất màu gọi là "Đồng hoa", Liêng đồng chất (Đồng hoa) cao hơn liêng không đồng chất, liêng to hơn được ăn liêng bé hơn, thấp hơn liêng là ảnh, thấp hơn ảnh là điểm. Nếu điểm bằng nhau thì so sánh chất bài theo chất màu cây bài quy định từ cao xuống thấp là: Rô, Cơ, Tép, Pích; nếu chất bài giống nhau thì so sánh nước bài.Cứ như vậy các con bạc sát phạt nhau hết ván này đến ván khác.

Tại Cơ quan điều tra các đối tượng khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai sử dụng số tiền để đánh bạc như sau: Trần Văn Nh là người gọi điện thoại rủ Đặng Kỳ A đến nhà để đánh bạc, đồng thời chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ và trải thảm nỉ cho các đối tượng đánh bạc, canh gác cho các đối tượng đánh bạc. Nh đã thu được 500.000 đồng tiền hồ của các đối tượng đánh bạc, số tiền này Nh đã mua thuốc và nước uống cho các đối tượng hết; Hoàng Văn Đ khai mang theo 12.000.000 đồng nhưng chỉ bỏ ra 3.000.000 đồng để đánh bạc (nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh); Đặng Văn C mang theo 15.000.000 đồng nhưng chỉ bỏ ra 1.000.000 đồng để đánh bạc (nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh); Nguyễn Văn H khai mang theo 2.300.000 đồng để đánh bạc (nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh) đến khi thua 1.000.000 đồng thì H nghỉ và để số tiền còn lại cho D vào tham gia đánh bạc cùng các đối tượng; Đặng Kỳ A khai mang theo 3.000.000 đồng để đánh bạc (nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh); Ngọ Văn M khai mang theo 1.500.000 đồng đến đánh bạc (nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh); Nguyễn Văn S khai mang theo 900.000 đồng để đánh bạc; Nguyễn Trung D khai không mang theo tiền, quá trình ban đầu các đối tượng đánh bạc thì Dũng ngồi xem, sau đó H nghỉ không đánh và để lại 1.000.000 đồng tại chiếu bạc thì Dũng vào thay chân của H tham gia đánh bạc cùng các đối tượng.

Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 24/2022/HS-ST ngày 24/02/2022 của Toà án nhân dân hyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 11 (mười một) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/12/2021.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Kỳ A 10 (mười) tháng tù về tội Đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/12/2021 đến ngày 21/12/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 BLHS: Phạt bổ sung các bị cáo Nguyễn Văn H, Đặng Kỳ A mỗi bị cáo 10.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác và giải quyết vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo, các quyền và nghĩa vụ khác.

Án xử xong, ngày 25/02/2022 bị cáo Đặng Kỳ A kháng cáo xin được hưởng án treo; ngày 10/03/2022, bị cáo Nguyễn Văn H kháng cao xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đặng Kỳ A, Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đều trình bày án sơ thẩm xử bị cáo là đúng người đúng tội. Bị cáo H ý kiến cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 11 tháng là nặng, bị cáo xin giảm nhẹ lý do trong thời gian bị tạm giam bị cáo rất ăn năn hối lỗi, đã nhờ em bị cáo nộp tiền phạt và án phí, bị cáo có ông nội là liệt sỹ; Bị cáo A xin được hưởng án treo lý do bị cáo đã nhận thức được sai lầm, ăn năn hối cải, đã nộp tiền phạt và án phí đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét cho bị cáo có cơ hội được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá hành vi phạm tội cùng nhân thân của các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát ý kiến đối với bị cáo H tại phiên tòa khai có tình tiết giảm nhẹ ông nội là liệt sỹ tuy nhiên không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận. Cũng tại phiên tòa, bị cáo H cung cấp cho HĐXX biên lại thu tiền phạt và án phí do bị cáo nhờ em bị cáo nộp, đây là tình tiết giảm nhẹ mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên căn cứ vào mức độ, tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đề nghị HĐXX sửa bản án sơ thẩm về tình tiết giảm nhẹ, cho bị cáo H hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (BLHS) nhưng không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên mức hình 11 tháng tù phạt đối với bị cáo.

Đối với bị cáo Đặng Kỳ A, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang ý kiến: Bị cáo tuy có nhân thân bị xử phạt hành chính nhưng đã lâu, tại phiên tòa bị cáo xuất trình biên lai nộp tiền phạt, án phí. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới của bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo A, sửa bản án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng án treo, giữ nguyên mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn H, Đặng Kỳ A nộp trong thời gian kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa theo đúng quy định tại Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo HĐXX thấy: Qua xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đủ cơ sở xác định: Ngày 15/12/2021, tại nhà của Trần Văn Nh thuộc thôn T, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang các bị cáo Hoàng Văn Đ, Nguyễn Văn H, Đặng Văn C, Đặng Kỳ A, Nguyễn Trung D, Nguyễn Văn S, Ngọ Văn M đã có hành vi đánh bạc với hình thức “Đánh Liêng”. Các đối tượng đang đánh bạc đến 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Tổng số tiền xác định các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 14.600.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận đi xe mô tô đến nhà Nh đánh bạc cùng các đối tượng và mang theo 2.300.000 đồng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc H nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh, đánh nhiều ván và đến khi thua 1.000.000 đồng thì H nghỉ và để số tiền còn lại cho D vào tham gia đánh bạc cùng các đối tượng. Bị cáo Đặng Kỳ A thừa nhận đi xe mô tô và mang theo 3.000.000 đồng đến đánh bạc cùng các đối tượng. Quá trình đánh bạc H nộp 100.000 đồng tiền hồ cho Nh và tham gia đánh bạc đến khi Công an vào bắt quả tang. Hành vi của Nguyễn Văn H, Đặng Kỳ A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS. Án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo H 11 tháng tù và tuyên phạt bị cáo A 10 tháng tù đều về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không oan.

[3] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn H thì thấy: Quá trình tham gia đánh bạc, bị cáo H tham gia đánh bạc thời gian ngắn nhất, khoảng 30 phút rồi nghỉ. Án sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội của bị cáo để xác định bị cáo phạm tội đánh bạc là có căn cứ. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 11 tháng tù là cao so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo H so với các bị cáo khác trong vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã có ý thức nhờ em nộp tiền phạt và án phí sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài ra tại phiên tòa bị cáo H khai có ông nội là liệt sỹ nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận tình tiết này. Do bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo trong vụ án là thứ yêu hơn so với một số bị cáo khác nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Từ các căn cứ trên, HĐXX không chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa đối với kháng cáo giảm xin nhẹ hình phạt của bị cáo H.

[4] Xét nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Đặng Kỳ A HĐXX thấy: Ngày 21/3/2016, bị cáo bị Trưởng Công an huyện Hiệp Hòa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Án sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xử phạt bị cáo 10 tháng tù là có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên vi phạm hành chính của bị cáo xẩy ra đã lâu, bị cáo tham gia đánh bạc khi được bị cáo Nh gọi điện rủ rê. Sau khi Tòa án sơ thẩm xét xử, bị cáo đã có ý thức nộp toàn bộ tiền phạt và án phí thể hiện sự ăn năn, hối cải của bị cáo nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm, xét bị cáo lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến, bị cáo có ý thức nộp tiền phạt và án phí là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 BLHS, phù hợp với hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đối với kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo là có căn cứ cần được chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: các bị cáo phạm tộ vì động cơ vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 BLHS.

[6]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận, nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm d, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

[7] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, giảm hình phạt;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của Đặng Kỳ A, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

Xử: Sửa án sơ thẩm.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/12/2021.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 50; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Kỳ A 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự;

3. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự phạt tiền mỗi bị cáo 10.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước. Xác nhận bị cáo H đã nộp đủ tiền phạt và án phí hình sự sơ thẩm tại biên lai thu số 0003166 ngày 16/5/2022 và bị cáo A đã nộp đủ tiền phạt và án phí hình sự sơ thẩm tại biên lai thu số 0003167 ngày 16/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa.

4.Án phí: Căn cứ điểm d, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn H, Đặng Kỳ A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

868
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 63/2022/HS-PT

Số hiệu:63/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về